Bà Bảy Vượt Biển
Chuyến vượt biển tìm tự do của tôi rất là may mắn không gặp cướp
biển chỉ bị sóng biển và mưa gió nhưng cũng đủ làm tôi hoảng hốt không dám vượt biển lần nữa. Dần dần quen với mọi người chung quanh, tôi mới biết được mọi người đến đảo đều mang theo một câu chuyện vượt biển khác nhau mà nơi dừng chân giống nhau đó là đi tìm tự do.
Tôi ở tại khu C, nơi trung tâm sinh hoạt của đảo Pulau Bidong, gần bãi biển, chợ, trường học, thông tin Văn hóa, nhà thờ, chùa. Buổi chiều ở đảo vào cuối năm mưa thật lớn, ngập cả lối đi, kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Thông báo trên đài phát thanh nghe tiếng được tiếng không. Một số người cùng xóm đã mặc áo mưa đến hội trường để tìm người thân, lúc về bảo rằng chẳng thấy ai quen cả. Nghe nói đâu toàn là đàn bà và con nít, điểm khởi hành từ vùng miền Tây sông Hậu Giang. Chẳng có ai là người xứ khác cả. Tôi nghe đến đây vội mừng, lát nữa đây trời tạnh mưa tôi sẽ đến hội trường tìm người thân hay bạn bè, biết đâu sẽ tìm được người quen đem về ở cùng nhà cho vui. Cùng người bản xứ lúc nào cũng Vui hơn.
Trời vừa dứt cơn mưa, tôi đang loay hoay với bữa cơm chiêu nâu chưa xong, có một anh chàng đên tìm tôi và hỏi:
- Nhà chị có hai người phải không?
Tôi đáp: - Dạ, đúng Vậy. Anh nói tiếp:
- Chị đón người mới nhập trại. Chỉ có nhà chị chứa đủ mười lăm người. Những nhà khác đông lắm không thể được. Đây là một gia đình, xin chị đón tiếp giùm.
Trong đầu tôi nghe loáng thoáng mười lăm người. Trời ơi, sao mà đông thế. Qui định chỉ có mười người cho một căn nhà mà bây giờ lên đến mười bảy người, không biết làm sao bây giờ. Anh ấy quay trở về phòng làm việc, một lúc Sau tay Xách nách mang vài thứ gì đấy cùng với bà mẹ khá lớn tuổi, ngoài năm mươi, cùng với lũ trẻ mười bốn đứa nhập chung nhà Với tôi.
Tôi chỉ cho bà chỗ nghỉ rồi phụ giúp mấy đứa bé tắm rửa. Cơm chiều cũng xong. Tôi mừng thầm, bà mẹ với mười bốn đứa trẻ vui nhà lắm. Vài ngày sau, tôi mới biết bà không phải là mẹ của chúng nó. Đứa gọi bà bằng bà nội, đứa gọi bà bằng bà ngoại, đứa gọi bà bằng bà. Sao bà can đảm thế, dẫn cả lũ con nít đi vượt biển. Tôi khâm phục bà lắm. Tôi và em tôi tìm cách nói chuyện với bà nhưng bà không nói chỉ lắc đầu hay gật đầu, đưa tay làm hiệu.
Cứ mỗi lần ăn cơm với bà, bà chỉ để đôi đũa trên chén cơm rồi khẩn nguyện điều gì khá lâu. Bà để chén cơm xuống ngay miệng định ăn, nước mắt của bà cứ tuôn tràn, bà ngừng không ăn được. Động tác như vậy cứ lập đi lập lại rất nhiều lần. Hình như chén cơm của bà đầy nước mắt. Bà ăn được một phần chén rồi lại bỏ đi nằm. Bà luôn luôn nằm quay mặt vào vách, tiếng khóc nghe nức nở lắm. Tôi thông cảm cho bà. Tình trạng những người mới tới đảo, ai cũng nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người thân. Suốt ba tuần lễ ở chung, bà chỉ nói câu: “Cám ơn cháu.” Những đứa trẻ đi theo bà, đứa lớn nhất chín tuổi, nhỏ nhất là hai tuổi. Tôi săn sóc hai đứa trẻ nhỏ nhất cho bà. Những đứa khác, có đúra tựr lo lấy được.
Ít lâu sau, tôi mới nấu cơm đãi bà. Bà trông khỏe hơn trước nhưng nỗi buồn niềm tâm sự còn ảo não. Buổi cơm chẳng có gì đặc biệt, toàn bộ là thực phẩm được cấp. Tôi làm rất nhiều món. Trước khi ăn cơm, tôi cẩn thận nói với bà: “Thưa bác, ngày mai hai chị em con sẽ rời trại đến trại chuyển tiếp. Bữa cơm hôm nay là bữa cơm chia tay với bác.” Tôi mới nói đến đây, bà ôm chầm lấy hai chị em, lại khóc nữa. Sao bà nhiều nước mắt thế! Tôi cầm tay bà lạnh khô cứng, có lẽ vì làm việc quá nhiều.
Ản cơm xong, hai chị em tôi bận rộn với chuyện rời đảo ngày mai. Bà đến bên cạnh tôi ngồi xuống và nói: “Cám ơn hai cháu nhiều lắm. Nếu không có hai cháu bà không thể nào săn sóc cho đám trẻ này được.” Bà tự giới thiệu là bà Bẩy rồi nói: “Cháu cứ gọi bác như thế.” Tôi ở với bà gần một tháng mới biết được tên bà.
Bà nói tiếp: “Con gái của bác nếu còn sống cũng cỡ tuổi con. Hình dáng bề ngoài và giọng nói của nó cũng giống như cháu. Mỗi lần nhìn cháu, bác lại nhớ đến nó. Nay tụi cháu đi rồi, nhà này buồn lắm.” Tôi an ủi bà, càng an ủi bà càng khóc. Tôi không biết phải làm sao. Có lẽ bà muốn gắn chặt tôi với bà hay bà muốn nói với tôi điều gì đó. Tôi nói với bà: “Sau này bác đến trại chuyển tiếp, bác tìm con.” Tôi đưa tên họ và địa chỉ cho bà. Bà bảo không biết đọc chữ. Tôi hỏi quê quán bà mới biết bà ở ngay đầu xóm của quê ngoại tôi. Bây giờ nhìn rõ tôi mới nhớ, bà đã đến nhà ngoại tôi vài lần trong lúc nghỉ hè tôi ở đó chơi. Còn nhớ bà đem biếu ngoại tôi nhánh cau giòn mới hái. Đến thăm nhau hàng ngày mà sao bây giờ bà đến đây. Bà ôm chầm lấy tôi hình như đã tìm được an ủi và nỗi nhớ thương. Lúc này, bà mới cẩn thận kể lại câu chuyện Vượt biển của bà cho tôi nghe. Câu chuyện chưa kết thúc, đêm đã tàn. Bà quá mệt mỏi. Sáng mai tôi lại rời đảo.
Bà kể. Chuyến đi rất nhiều tốn kém. Tàu lớn, máy móc đem theo nhiều vì đa số là đàn bà và trẻ em. Cùng với mấy đứa con của bà, rể, dâu, cháu nội, cháu ngoại, cháu gọi bà bằng Cό, bằng dì. Để bảo đảm không bị công an bắt, ba đứa con của bà vừa cải tạo xong muốn đi an toàn đã tốn mười cây vàng để che mắt tụi công an đưa ra khỏi hải phận.
Ra tới hải phận quốc tế, trên tàu bảy mươi bốn người chúc mừng nhau vượt khỏi hiểm nghèo. Đi biển không như mình tưởng tượng được.
Trải qua một đêm, đến ngày hôm sau, khoảng bốn giờ chiều, tàu gặp một tàu mọi người tưởng là tàu cứu người ở ngoài khơi. Mọi người đều náo nức vui mừng vì có tàu cứu giúp. Không ngờ, tàu cặp vào, một số người nhảy vọt lên, người cầm đao, người cầm cây. Tất cả chín người ai cũng có vũ khí đe dọa. Chúng ra dấu bảo đưa tiền, vàng. Trên tàu ai cũng đưa cho chúng để được thoát nạn. Chúng bỏ đi. Khoảng hai tiếng sau, lại có một nhóm khác đến. Cứ như thế cho đến ngày thứ hai, tổng cộng bị cướp năm lần. Mọi người bàn nhau, tất cả tài sản mang theo hãy bỏ chung với nhau, mỗi lần gặp cướp chia ra một ít như thế hay hơn và để bảo đảm an toàn. Mọi người đồng ý.
Thêm hai chiếc tàu cướp tới, mọi người đưa tiền cho chúng. Có lẽ chê ít hay sao đó, chúng tách rời phụ nữ ra dẫn sang tàu của chúng, tất cả là mười bảy cô gái. Chúng hãm hiếp mặc cho tiếng kêu cầu cứu gào thét của phụ nữ. Xong chúng trả phụ nữ lại tàu. Chúng nó bàn tính với nhau rất lâu rồi quyết định đục lủng thuyền, phá hư máy. Tất cả lương thực nước uống mang theo đều bị chúng quăng xuống biển. Nước vào ngập cả nửa thuyền, mọi người lo sợ và hì hục tát nước ra. Đến nửa đêm, ai nấy đều mệt và để cho thuyền trôi. Phần bị say sóng, đói, lạnh, khát nước, nên cũng ngủ thiếp đi. Vào lúc nửa đêm, sóng to nổi dậy, ai cũng lo sợ thuyền sẽ bị chìm. Phụ nữ ôm con vào lòng. Thanh niên lo tát nước. Tiéng khóc của trẻ con lúc to lúc nhỏ. Phụ nữ bị hãm hiếp chi biết ôm gối ngồi khóc thút thít. Hình như tiếng khóc đó không ngưng được. Trên tàu, trẻ em đòi mẹ cho ăn. Tiếng chửi thề của ai đó: “Cướp cứ cướp, tại sao còn quăng hết đồ ăn xuống biển. Bây giờ trẻ em đói lấy gì mà ăn.” Hình như lúc nào trên tàu cũng có tiếng phàn nàn tụi cướp quá dã man.
Mờ mờ sáng hôm sau, lại thấy xuất hiện thêm hai chiếc tàu trước mắt. Không ai đoán sai cả, đó là tàu cướp. Chúng cướp gì nữa bây giờ, trên tàu đâu có thứ gì mà cướp. Đồ quí giá, đồ ăn, đồ dùng, phương tiện vượt biên đắm chìm dưới lòng biển sâu. Đàn bà, con gái đã bị chúng hành hạ, bây giờ còn đến làm gì. Thôi cứ Xuôi theo định mệnh là xong. Thuyền chúng cặp hai bên, sau vài phút quan sát, bọn chúng độ hai mươi tên đến từng người lục soát. Hỏi han la lối, mọi người trên tàu không ai trả lời. Không hiểu chúng nói gì nhưng ai cũng thừa hiểu rằng
chúng muốn vàng và đồ quí giá. Trẻ con càng khóc lớn hơn nữa. Bọn cướp không tìm ra thứ gì đáng lấy, chúng kéo tất cả phụ nữ lên trước mũi tàu. Những đứa bé khóc la đòi mẹ, bọn cướp vẫn không màng quan tâm đến. Chúng xô đẩy các chị em phụ nữ qua hai tàu của chúng. Còn lại năm phụ nữ chúng lấy dây trói lại hết, lột hết quần áo quăng xuống biển và đè họ xuống hãm hiếp trước mũi tàu trước bao nhiêu cặp mắt của mọi người. Tiếng la hét của người bị hãm hiếp, tiếng cầu cứu của những người đã bị bắt đi nghe sao mà thê thảm. Trên tàu, phụ nữ còn lại chỉ có bà. Có lẽ bọn cướp chê bà quá già, xấu xí, nhờ vậy mà thoát được cảnh này.
Đau đớn hơn là con dâu của bà. Sao mà tội quá! Con dâu Vừa mới cưới đầu năm, cuối năm dẫn đi vượt biên với ùi bụng bầu đã căng tròn, bộ dạng mệt mỏi phần vì đói, không quen đi biển lại mang thai khá lớn. Vậy mà bọn cướp cũng không tha cho nó. Giờ đây nằm giống như người chết trên mũi tàu, toàn thân không có thứ gì để che. Con trai của bà, chồng nó, không thể chịu được cảnh vợ mang thai mà lại bị hãm hiếp đứng dậy chạy tới, xô tên cướp sang một bên. Tên cướp lảo đảo té xuống thuyền. Nó vùng dậy và nói gì với đồng bọn, lập tức chúng nó xuất hiện trên tay mỗi đứa đều có một con dao mũi dài và cong nhảy sang tàu chém tất cả những người còn sống sót. Có một thằng đưa tay cao chém thật mạnh vào cổ con trai bà. Đầu con trai bà rớt xuống biển, máu phun ra vọt mạnh, thân thể ngã xuống tàu. Bà nhào tới ôm lấy con, tay chân của nó còn run, tim của nó còn đập. Bà áp mặt vào ngực nó, ôm chặt nó vào lòng. Máu của nó thêm một lần nữa hòa tan vào người bà. Bà đã chết cùng với con. Mặc cho chung quanh tiếng la hét, tiếng khóc lóc, tiếng kêu của trẻ em, tất cả cùng bà chìm vào biển sâu.
Vừa lúc, ở đảo Bidong, trời có gió lạnh từ biển thổi vào. Tôi biết đêm đã khuya. Tiếng nói cùng tiếng khóc của bà thì thào bên tai tôi nhỏ dần, nhỏ dần rồi tan biến trong đêm tôi. Tôi nghĩ, bà đã ngủ hay vì thương nhớ con không thể kể tiếp được giờ phút hãi hùng mà bà đã chứng kiến.
Câu chuyện bà kể cho tôi nghe tới đó coi như đã kết thúc. Nhưng tại Sao bà còn sống và nằm cạnh tôi như bây giờ. Tôi có thật nhiều câu hỏi nhưng không dám đánh thức bà dậy. Sáng mai tôi rời đảo. Hoàn cảnh của bà làm tôi xúc động, suốt đêm cứ nghĩ lung tung. Gia đình bà đã tan nát không còn ai nữa. Phần máu thịt bà đã tan trong lòng đại dương, đã mang theo linh hồn và sự sống của bà. Bây giờ bà chỉ còn lại thân xác gầy gò khô héo cùng với trách nhiệm nặng nề là đám cháu mồ côi. Bây giờ tôi mới hiểu rõ thái độ thờ ơ, lạnh lùng của bà lúc mới đến ở với tôi. Tôi thấy thương bà hơn bất cứ một ai và không muốn rời bà. Tôi muốn ở cùng với bà thêm ít lâu nữa nhưng chuyện này tôi không quyết định được.
Chúng tôi chia tay bà. Thông thường mọi người trên đảo rời trại vui vẻ, hăng hái ra đi mà sao trong lòng tôi còn quyến luyến sâu đậm. Tôi rời trại cứ suy nghĩ mãi. Bà đã chết cùng với con ớ trên biển mà tại Sao hôm nay còn đây để kể lại câu chuyện cho tôi nghe. Thật là một sự huyền bí. Trong lòng tôi bao nhiêu câu hỏi mà không sao được trả lời.
Một tháng sau, tôi gặp lại bà tại trại chuyển tiếp Sangei Besi, Mã Lai. Bà lại ôm lấy tôi vừa cười vừa khóc. Thế là bao nhiêu câu hỏi ẩm ức lâu nay được mang ra nhờ bà giải đáp.
Bà kể rằng đã chết trên con tàu đầy máu ấy. Một cơn mưa buổi tối rất lớn, nước ngập lên cả tàu, ngập đến chỗ bà nằm. Bà cố gắng ngồi dậy nhưng không sao ngồi được. Một khối nặng nề đè lên người bà, cố gắng hết sức cũng không lay chuyển được. Đó là những người trên tàu đã chết và đè lên người bà. Một lúc khá lâu, một cơn sóng biển thật mạnh đánh vào mạn thuyền hất tung đi khối nặng đè trên người bà. Bà lật đật ngẩng đầu lên để thở. Trong bóng tối dày đặc của biển, bà không biết được đang ở đâu. Bà sờ soạng trong bóng tối, không nhớ được chuyện gì đã xảy ra. Bà quơ tay chung quanh để tìm phương hướng, đụng phải mạn thuyền, lần mò đến đó. Hai tay nắm mạn thuyền, hai chân đứng trên xác chết nằm ngổn ngang trên thuyền. Bà nhắm mắt lại, không nghe một cử động hay một tiếng người nào chung quanh, chỉ có tiếng thì thầm của sóng biển. Lúc này bà mới nhớ ra là tàu đã bị cướp và tất cả đã chết. Bà nhắm mắt lại cầu nguyện cho những linh hồn đã ra đi và nguyện cầu một con sóng lớn tới mang bà đi cùng với thân nhân.
Sáng hôm sau, mặt trời đã lên cao, bà tỉnh dậy với tiéng khóc của trẻ em. Không phải một tiếng mà rất nhiều tiếng. Bà quay lại nhìn đằng sau khoang tàu, nơi phần dưới để máy chạy, phần trên được mui che để ngồi lái, không to lắm khoảng bằng một giường ngủ. Bà run rẩy đi về hướng ấy, thì ra những đứa trẻ trên tàu đều tập trung ở đó. Không có ai là người lớn cả, toàn trẻ em. Bà nhìn lại trên tàu, khoảng ba mươi xác chết nằm ngổn ngang, trôi bồng bềnh qua lại. Nước đã vào hơn nửa thuyền, nước mưa, nước biển và máu trộn vào nhau. Có những xác chết không đầu, bà biết trong đó có cả con, dâu, rể và cháu của bà. Bà không dám nhìn nữa chỉ biết ôm chặt những đứa bé còn lại trên tàu. Nước mắt bà cứ trào ra. Bà chỉ còn một ước mơ duy nhất là cho sóng biển nổi lên, mưa thật to để tàu chìm trong lòng biển cả. Tất cả sẽ được đoàn tụ ở bên kia thế giới.
Qua thêm một ngày, tàu lênh đênh trên biển đến ngày thứ năm. Trưa hôm ấy, bà thấy một chiếc máy bay bay tới, bay lui trên đầu. Họ phóng thanh nói gì bà chẳng hiểu. Rồi bay mất. Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chiếc máy bay đó dẫn đến hai chiếc thuyền thật lớn cặp vào tàu của bà và lần lượt đưa bà và trẻ em sang tàu họ. Ngày hôm sau, bà đến Bidong cùng với mười bốn đứa trẻ mồ côi. Người cứu bà đã phát hiện nhiều xác chết trôi trên biển.
Khi tôi gặp bà tại trại chuyển tiếp, bà rất vui mừng vì đoàn tàu của bà được trực tiếp sang Mỹ trong thời gian sắp tới. Hiện nay, tôi không biết bà đang ở đâu trên đất nước này. Những đứa bé đó bây giờ đã thực sự trưởng thành không biết chúng nó có còn nhớ chuyến vượt biên đau thương ngày nào không? Lúc ấy là cuối năm 1985 đang bước vào mùa Xuân 1986.
Tôi nhớ tàu của tôi đến Bidong trước tàu của bà. Tàu của tôi là MB-464. Tàu của bà lên đảo cách đó sau ba tuần, MB-474 hay MB477, tôi không nhớ rõ lắm.
-Phan Đẹp
Nguồn: sưu tầm
Chuyến vượt biển tìm tự do của tôi rất là may mắn không gặp cướp
biển chỉ bị sóng biển và mưa gió nhưng cũng đủ làm tôi hoảng hốt không dám vượt biển lần nữa. Dần dần quen với mọi người chung quanh, tôi mới biết được mọi người đến đảo đều mang theo một câu chuyện vượt biển khác nhau mà nơi dừng chân giống nhau đó là đi tìm tự do.
Tôi ở tại khu C, nơi trung tâm sinh hoạt của đảo Pulau Bidong, gần bãi biển, chợ, trường học, thông tin Văn hóa, nhà thờ, chùa. Buổi chiều ở đảo vào cuối năm mưa thật lớn, ngập cả lối đi, kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Thông báo trên đài phát thanh nghe tiếng được tiếng không. Một số người cùng xóm đã mặc áo mưa đến hội trường để tìm người thân, lúc về bảo rằng chẳng thấy ai quen cả. Nghe nói đâu toàn là đàn bà và con nít, điểm khởi hành từ vùng miền Tây sông Hậu Giang. Chẳng có ai là người xứ khác cả. Tôi nghe đến đây vội mừng, lát nữa đây trời tạnh mưa tôi sẽ đến hội trường tìm người thân hay bạn bè, biết đâu sẽ tìm được người quen đem về ở cùng nhà cho vui. Cùng người bản xứ lúc nào cũng Vui hơn.
Trời vừa dứt cơn mưa, tôi đang loay hoay với bữa cơm chiêu nâu chưa xong, có một anh chàng đên tìm tôi và hỏi:
- Nhà chị có hai người phải không?
Tôi đáp: - Dạ, đúng Vậy. Anh nói tiếp:
- Chị đón người mới nhập trại. Chỉ có nhà chị chứa đủ mười lăm người. Những nhà khác đông lắm không thể được. Đây là một gia đình, xin chị đón tiếp giùm.
Trong đầu tôi nghe loáng thoáng mười lăm người. Trời ơi, sao mà đông thế. Qui định chỉ có mười người cho một căn nhà mà bây giờ lên đến mười bảy người, không biết làm sao bây giờ. Anh ấy quay trở về phòng làm việc, một lúc Sau tay Xách nách mang vài thứ gì đấy cùng với bà mẹ khá lớn tuổi, ngoài năm mươi, cùng với lũ trẻ mười bốn đứa nhập chung nhà Với tôi.
Tôi chỉ cho bà chỗ nghỉ rồi phụ giúp mấy đứa bé tắm rửa. Cơm chiều cũng xong. Tôi mừng thầm, bà mẹ với mười bốn đứa trẻ vui nhà lắm. Vài ngày sau, tôi mới biết bà không phải là mẹ của chúng nó. Đứa gọi bà bằng bà nội, đứa gọi bà bằng bà ngoại, đứa gọi bà bằng bà. Sao bà can đảm thế, dẫn cả lũ con nít đi vượt biển. Tôi khâm phục bà lắm. Tôi và em tôi tìm cách nói chuyện với bà nhưng bà không nói chỉ lắc đầu hay gật đầu, đưa tay làm hiệu.
Cứ mỗi lần ăn cơm với bà, bà chỉ để đôi đũa trên chén cơm rồi khẩn nguyện điều gì khá lâu. Bà để chén cơm xuống ngay miệng định ăn, nước mắt của bà cứ tuôn tràn, bà ngừng không ăn được. Động tác như vậy cứ lập đi lập lại rất nhiều lần. Hình như chén cơm của bà đầy nước mắt. Bà ăn được một phần chén rồi lại bỏ đi nằm. Bà luôn luôn nằm quay mặt vào vách, tiếng khóc nghe nức nở lắm. Tôi thông cảm cho bà. Tình trạng những người mới tới đảo, ai cũng nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người thân. Suốt ba tuần lễ ở chung, bà chỉ nói câu: “Cám ơn cháu.” Những đứa trẻ đi theo bà, đứa lớn nhất chín tuổi, nhỏ nhất là hai tuổi. Tôi săn sóc hai đứa trẻ nhỏ nhất cho bà. Những đứa khác, có đúra tựr lo lấy được.
Ít lâu sau, tôi mới nấu cơm đãi bà. Bà trông khỏe hơn trước nhưng nỗi buồn niềm tâm sự còn ảo não. Buổi cơm chẳng có gì đặc biệt, toàn bộ là thực phẩm được cấp. Tôi làm rất nhiều món. Trước khi ăn cơm, tôi cẩn thận nói với bà: “Thưa bác, ngày mai hai chị em con sẽ rời trại đến trại chuyển tiếp. Bữa cơm hôm nay là bữa cơm chia tay với bác.” Tôi mới nói đến đây, bà ôm chầm lấy hai chị em, lại khóc nữa. Sao bà nhiều nước mắt thế! Tôi cầm tay bà lạnh khô cứng, có lẽ vì làm việc quá nhiều.
Ản cơm xong, hai chị em tôi bận rộn với chuyện rời đảo ngày mai. Bà đến bên cạnh tôi ngồi xuống và nói: “Cám ơn hai cháu nhiều lắm. Nếu không có hai cháu bà không thể nào săn sóc cho đám trẻ này được.” Bà tự giới thiệu là bà Bẩy rồi nói: “Cháu cứ gọi bác như thế.” Tôi ở với bà gần một tháng mới biết được tên bà.
Bà nói tiếp: “Con gái của bác nếu còn sống cũng cỡ tuổi con. Hình dáng bề ngoài và giọng nói của nó cũng giống như cháu. Mỗi lần nhìn cháu, bác lại nhớ đến nó. Nay tụi cháu đi rồi, nhà này buồn lắm.” Tôi an ủi bà, càng an ủi bà càng khóc. Tôi không biết phải làm sao. Có lẽ bà muốn gắn chặt tôi với bà hay bà muốn nói với tôi điều gì đó. Tôi nói với bà: “Sau này bác đến trại chuyển tiếp, bác tìm con.” Tôi đưa tên họ và địa chỉ cho bà. Bà bảo không biết đọc chữ. Tôi hỏi quê quán bà mới biết bà ở ngay đầu xóm của quê ngoại tôi. Bây giờ nhìn rõ tôi mới nhớ, bà đã đến nhà ngoại tôi vài lần trong lúc nghỉ hè tôi ở đó chơi. Còn nhớ bà đem biếu ngoại tôi nhánh cau giòn mới hái. Đến thăm nhau hàng ngày mà sao bây giờ bà đến đây. Bà ôm chầm lấy tôi hình như đã tìm được an ủi và nỗi nhớ thương. Lúc này, bà mới cẩn thận kể lại câu chuyện Vượt biển của bà cho tôi nghe. Câu chuyện chưa kết thúc, đêm đã tàn. Bà quá mệt mỏi. Sáng mai tôi lại rời đảo.
Bà kể. Chuyến đi rất nhiều tốn kém. Tàu lớn, máy móc đem theo nhiều vì đa số là đàn bà và trẻ em. Cùng với mấy đứa con của bà, rể, dâu, cháu nội, cháu ngoại, cháu gọi bà bằng Cό, bằng dì. Để bảo đảm không bị công an bắt, ba đứa con của bà vừa cải tạo xong muốn đi an toàn đã tốn mười cây vàng để che mắt tụi công an đưa ra khỏi hải phận.
Ra tới hải phận quốc tế, trên tàu bảy mươi bốn người chúc mừng nhau vượt khỏi hiểm nghèo. Đi biển không như mình tưởng tượng được.
Trải qua một đêm, đến ngày hôm sau, khoảng bốn giờ chiều, tàu gặp một tàu mọi người tưởng là tàu cứu người ở ngoài khơi. Mọi người đều náo nức vui mừng vì có tàu cứu giúp. Không ngờ, tàu cặp vào, một số người nhảy vọt lên, người cầm đao, người cầm cây. Tất cả chín người ai cũng có vũ khí đe dọa. Chúng ra dấu bảo đưa tiền, vàng. Trên tàu ai cũng đưa cho chúng để được thoát nạn. Chúng bỏ đi. Khoảng hai tiếng sau, lại có một nhóm khác đến. Cứ như thế cho đến ngày thứ hai, tổng cộng bị cướp năm lần. Mọi người bàn nhau, tất cả tài sản mang theo hãy bỏ chung với nhau, mỗi lần gặp cướp chia ra một ít như thế hay hơn và để bảo đảm an toàn. Mọi người đồng ý.
Thêm hai chiếc tàu cướp tới, mọi người đưa tiền cho chúng. Có lẽ chê ít hay sao đó, chúng tách rời phụ nữ ra dẫn sang tàu của chúng, tất cả là mười bảy cô gái. Chúng hãm hiếp mặc cho tiếng kêu cầu cứu gào thét của phụ nữ. Xong chúng trả phụ nữ lại tàu. Chúng nó bàn tính với nhau rất lâu rồi quyết định đục lủng thuyền, phá hư máy. Tất cả lương thực nước uống mang theo đều bị chúng quăng xuống biển. Nước vào ngập cả nửa thuyền, mọi người lo sợ và hì hục tát nước ra. Đến nửa đêm, ai nấy đều mệt và để cho thuyền trôi. Phần bị say sóng, đói, lạnh, khát nước, nên cũng ngủ thiếp đi. Vào lúc nửa đêm, sóng to nổi dậy, ai cũng lo sợ thuyền sẽ bị chìm. Phụ nữ ôm con vào lòng. Thanh niên lo tát nước. Tiéng khóc của trẻ con lúc to lúc nhỏ. Phụ nữ bị hãm hiếp chi biết ôm gối ngồi khóc thút thít. Hình như tiếng khóc đó không ngưng được. Trên tàu, trẻ em đòi mẹ cho ăn. Tiếng chửi thề của ai đó: “Cướp cứ cướp, tại sao còn quăng hết đồ ăn xuống biển. Bây giờ trẻ em đói lấy gì mà ăn.” Hình như lúc nào trên tàu cũng có tiếng phàn nàn tụi cướp quá dã man.
Mờ mờ sáng hôm sau, lại thấy xuất hiện thêm hai chiếc tàu trước mắt. Không ai đoán sai cả, đó là tàu cướp. Chúng cướp gì nữa bây giờ, trên tàu đâu có thứ gì mà cướp. Đồ quí giá, đồ ăn, đồ dùng, phương tiện vượt biên đắm chìm dưới lòng biển sâu. Đàn bà, con gái đã bị chúng hành hạ, bây giờ còn đến làm gì. Thôi cứ Xuôi theo định mệnh là xong. Thuyền chúng cặp hai bên, sau vài phút quan sát, bọn chúng độ hai mươi tên đến từng người lục soát. Hỏi han la lối, mọi người trên tàu không ai trả lời. Không hiểu chúng nói gì nhưng ai cũng thừa hiểu rằng
chúng muốn vàng và đồ quí giá. Trẻ con càng khóc lớn hơn nữa. Bọn cướp không tìm ra thứ gì đáng lấy, chúng kéo tất cả phụ nữ lên trước mũi tàu. Những đứa bé khóc la đòi mẹ, bọn cướp vẫn không màng quan tâm đến. Chúng xô đẩy các chị em phụ nữ qua hai tàu của chúng. Còn lại năm phụ nữ chúng lấy dây trói lại hết, lột hết quần áo quăng xuống biển và đè họ xuống hãm hiếp trước mũi tàu trước bao nhiêu cặp mắt của mọi người. Tiếng la hét của người bị hãm hiếp, tiếng cầu cứu của những người đã bị bắt đi nghe sao mà thê thảm. Trên tàu, phụ nữ còn lại chỉ có bà. Có lẽ bọn cướp chê bà quá già, xấu xí, nhờ vậy mà thoát được cảnh này.
Đau đớn hơn là con dâu của bà. Sao mà tội quá! Con dâu Vừa mới cưới đầu năm, cuối năm dẫn đi vượt biên với ùi bụng bầu đã căng tròn, bộ dạng mệt mỏi phần vì đói, không quen đi biển lại mang thai khá lớn. Vậy mà bọn cướp cũng không tha cho nó. Giờ đây nằm giống như người chết trên mũi tàu, toàn thân không có thứ gì để che. Con trai của bà, chồng nó, không thể chịu được cảnh vợ mang thai mà lại bị hãm hiếp đứng dậy chạy tới, xô tên cướp sang một bên. Tên cướp lảo đảo té xuống thuyền. Nó vùng dậy và nói gì với đồng bọn, lập tức chúng nó xuất hiện trên tay mỗi đứa đều có một con dao mũi dài và cong nhảy sang tàu chém tất cả những người còn sống sót. Có một thằng đưa tay cao chém thật mạnh vào cổ con trai bà. Đầu con trai bà rớt xuống biển, máu phun ra vọt mạnh, thân thể ngã xuống tàu. Bà nhào tới ôm lấy con, tay chân của nó còn run, tim của nó còn đập. Bà áp mặt vào ngực nó, ôm chặt nó vào lòng. Máu của nó thêm một lần nữa hòa tan vào người bà. Bà đã chết cùng với con. Mặc cho chung quanh tiếng la hét, tiếng khóc lóc, tiếng kêu của trẻ em, tất cả cùng bà chìm vào biển sâu.
Vừa lúc, ở đảo Bidong, trời có gió lạnh từ biển thổi vào. Tôi biết đêm đã khuya. Tiếng nói cùng tiếng khóc của bà thì thào bên tai tôi nhỏ dần, nhỏ dần rồi tan biến trong đêm tôi. Tôi nghĩ, bà đã ngủ hay vì thương nhớ con không thể kể tiếp được giờ phút hãi hùng mà bà đã chứng kiến.
Câu chuyện bà kể cho tôi nghe tới đó coi như đã kết thúc. Nhưng tại Sao bà còn sống và nằm cạnh tôi như bây giờ. Tôi có thật nhiều câu hỏi nhưng không dám đánh thức bà dậy. Sáng mai tôi rời đảo. Hoàn cảnh của bà làm tôi xúc động, suốt đêm cứ nghĩ lung tung. Gia đình bà đã tan nát không còn ai nữa. Phần máu thịt bà đã tan trong lòng đại dương, đã mang theo linh hồn và sự sống của bà. Bây giờ bà chỉ còn lại thân xác gầy gò khô héo cùng với trách nhiệm nặng nề là đám cháu mồ côi. Bây giờ tôi mới hiểu rõ thái độ thờ ơ, lạnh lùng của bà lúc mới đến ở với tôi. Tôi thấy thương bà hơn bất cứ một ai và không muốn rời bà. Tôi muốn ở cùng với bà thêm ít lâu nữa nhưng chuyện này tôi không quyết định được.
Chúng tôi chia tay bà. Thông thường mọi người trên đảo rời trại vui vẻ, hăng hái ra đi mà sao trong lòng tôi còn quyến luyến sâu đậm. Tôi rời trại cứ suy nghĩ mãi. Bà đã chết cùng với con ớ trên biển mà tại Sao hôm nay còn đây để kể lại câu chuyện cho tôi nghe. Thật là một sự huyền bí. Trong lòng tôi bao nhiêu câu hỏi mà không sao được trả lời.
Một tháng sau, tôi gặp lại bà tại trại chuyển tiếp Sangei Besi, Mã Lai. Bà lại ôm lấy tôi vừa cười vừa khóc. Thế là bao nhiêu câu hỏi ẩm ức lâu nay được mang ra nhờ bà giải đáp.
Bà kể rằng đã chết trên con tàu đầy máu ấy. Một cơn mưa buổi tối rất lớn, nước ngập lên cả tàu, ngập đến chỗ bà nằm. Bà cố gắng ngồi dậy nhưng không sao ngồi được. Một khối nặng nề đè lên người bà, cố gắng hết sức cũng không lay chuyển được. Đó là những người trên tàu đã chết và đè lên người bà. Một lúc khá lâu, một cơn sóng biển thật mạnh đánh vào mạn thuyền hất tung đi khối nặng đè trên người bà. Bà lật đật ngẩng đầu lên để thở. Trong bóng tối dày đặc của biển, bà không biết được đang ở đâu. Bà sờ soạng trong bóng tối, không nhớ được chuyện gì đã xảy ra. Bà quơ tay chung quanh để tìm phương hướng, đụng phải mạn thuyền, lần mò đến đó. Hai tay nắm mạn thuyền, hai chân đứng trên xác chết nằm ngổn ngang trên thuyền. Bà nhắm mắt lại, không nghe một cử động hay một tiếng người nào chung quanh, chỉ có tiếng thì thầm của sóng biển. Lúc này bà mới nhớ ra là tàu đã bị cướp và tất cả đã chết. Bà nhắm mắt lại cầu nguyện cho những linh hồn đã ra đi và nguyện cầu một con sóng lớn tới mang bà đi cùng với thân nhân.
Sáng hôm sau, mặt trời đã lên cao, bà tỉnh dậy với tiéng khóc của trẻ em. Không phải một tiếng mà rất nhiều tiếng. Bà quay lại nhìn đằng sau khoang tàu, nơi phần dưới để máy chạy, phần trên được mui che để ngồi lái, không to lắm khoảng bằng một giường ngủ. Bà run rẩy đi về hướng ấy, thì ra những đứa trẻ trên tàu đều tập trung ở đó. Không có ai là người lớn cả, toàn trẻ em. Bà nhìn lại trên tàu, khoảng ba mươi xác chết nằm ngổn ngang, trôi bồng bềnh qua lại. Nước đã vào hơn nửa thuyền, nước mưa, nước biển và máu trộn vào nhau. Có những xác chết không đầu, bà biết trong đó có cả con, dâu, rể và cháu của bà. Bà không dám nhìn nữa chỉ biết ôm chặt những đứa bé còn lại trên tàu. Nước mắt bà cứ trào ra. Bà chỉ còn một ước mơ duy nhất là cho sóng biển nổi lên, mưa thật to để tàu chìm trong lòng biển cả. Tất cả sẽ được đoàn tụ ở bên kia thế giới.
Qua thêm một ngày, tàu lênh đênh trên biển đến ngày thứ năm. Trưa hôm ấy, bà thấy một chiếc máy bay bay tới, bay lui trên đầu. Họ phóng thanh nói gì bà chẳng hiểu. Rồi bay mất. Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chiếc máy bay đó dẫn đến hai chiếc thuyền thật lớn cặp vào tàu của bà và lần lượt đưa bà và trẻ em sang tàu họ. Ngày hôm sau, bà đến Bidong cùng với mười bốn đứa trẻ mồ côi. Người cứu bà đã phát hiện nhiều xác chết trôi trên biển.
Khi tôi gặp bà tại trại chuyển tiếp, bà rất vui mừng vì đoàn tàu của bà được trực tiếp sang Mỹ trong thời gian sắp tới. Hiện nay, tôi không biết bà đang ở đâu trên đất nước này. Những đứa bé đó bây giờ đã thực sự trưởng thành không biết chúng nó có còn nhớ chuyến vượt biên đau thương ngày nào không? Lúc ấy là cuối năm 1985 đang bước vào mùa Xuân 1986.
Tôi nhớ tàu của tôi đến Bidong trước tàu của bà. Tàu của tôi là MB-464. Tàu của bà lên đảo cách đó sau ba tuần, MB-474 hay MB477, tôi không nhớ rõ lắm.
-Phan Đẹp
Nguồn: sưu tầm