TƯỜNG TRÌNH - KHÚC HÁT DU CA
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness

Chuyện Cổ Tích Viết Lại


Lời Hay:

Chuyện Cổ Tích Viết Lại

Để nhớ thuyền nhân cựu Trung Tá Nguyễn Văn Tăng, họa sĩ ETC
Nguyễn Quang Trường, cùng những thuyền nhân trại Normol Banthad, Panat Nikkhom, Thái Lan tháng Mười năm 1988 – tháng Sáu măm 1990.
| Ba tôi là người quyết định vượt biên. Ông nói mười ba năm học tập cải tạo trải dài qua những trại tù Nam Bắc cùng hai mươi năm làm lính chiến đấu với cộng sản từng ngày, ông có đủ kinh nghiệm xương máu để phải ra đi. Ba tôi quyết định có nghĩa là mọi việc đã xong, không cần bàn cãi. Thật ra, bên ngoài nhà tù ba tôi đang ở, chúng tôi cũng đang Ở trong nhà tù hình chữ S mang tên Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Một buổi chiều Saigon tháng Mười vẫn còn nóng bức, ngột ngạt.
Chúng tôi từ giã những người thân yêu, bàn bạc thêm đôi điều với người dẫn đường vượt biển, và ra đi. Những chuyến đi xa đầy trắc trở
không có tiên đưa, hoan hỉ, mà chỉ có cúi mặt buôn tủi, giâu giêm.
Bến xe đi Hồng Ngự ngày ấy nằm trên đường Sư Vạn Hạnh. Chúng tôi lên một chiếc xe “chạy dù” bất hợp pháp. Cả quê hương thuở ấy việc gì cũng lén lút, xe “chạy dù” nhiều hơn xe trong bến. Người không hộ khẩu buôn bán không có giấy phép được sống tự do đầy đủ hiểu theo nghĩa nào Ở quê hương cũng chỉ là chui.
Chúng tôi ngồi trên chiếc xe khá cũ kỹ và chật chội đầy người và hàng hóa. Điều này khá quen thuộc với mọi người. Chung quanh tôi hầu hết hành khách là con buôn và những kẻ chạy trốn. Những câu chuyện chúng tôi nghe được là những mưu sinh thoát hiểm từ những bạn hàng. Họ thông báo cho nhau những tin tức, mánh khóe mới nhất để qua sông, Vượt trạm. Xe chạy qua một quãng đường, tôi có cảm giác như mất đi một phần đất. Những Bình Chánh, Long An, Mỹ Tho... Những khuôn mặt đêm nay tôi bắt gặp đã như là một bỏ lại vĩnh viễn. Biết làm sao hơn. Làm người vào lúc này trên quê hương, tôi không có nhiều điều để lựa chọn, tôi chọn “đi” may ra...
Xe chạy với tốc độ của chiếc xe đạp chạy nhanh bởi quá tải. Những trạm gác liên tục trên một con đường, những món tiền và những gói thuốc lá được trao ra đổi lại sự dễ dãi. Người tài xế không hề phạm lỗi vẫn phải chi trả, không hề kêu than. Quen rồi. Vâng! Tất cả quá quen thuộc trên đất nước này, những điều buồn cười nhất cũng đã xảy ra mỗi ngày. Bên tôi, ba tôi đang gật gà ngủ. Những ổ gà trên đường đi không cho ba tôi ngủ say, người lại thức giấc đốt thuốc lá, những vòng khói bay tản mác trong lòng xe đêm. Bên ngoài đã tối lắm, những con đường thiếu đèn chiếu sáng không cho tôi nhìn thấy nhiều hơn những vùng đất đã bỏ lại. Tôi nhớ đến vợ con, những đứa trẻ đang lớn dần ở tuổi cần Sự chăm sóc hướng dẫn của tôi, tôi lại ra đi. Tôi nhớ lại lời nói dối với con: “Bố chỉ về quê thăm nội vài ngày rồi bố trở về. Con phải ngoan nhé.” Tội nghiệp những đứa trẻ, tôi đã dạy chúng nói dối. Bên cạnh tôi, ba tôi vẫn còn thức, trừng mắt nhìn vào đêm và đốt thuốc. Tôi hiểu không dễ dàng lắm để rời bỏ quê hương mà ba tôi đã từng sống gần sáu mươi năm. Từ một cậu bé, rồi làm người lính, và nhiều năm tù đày. Một “quê hương thương khó” ở lại khó khăn, mà đi vẫn không nỡ.
Vẫn đêm, xe chạy chậm, những trạm gác cũng bị bỏ lại, những vùng đất cũng đã đi qua, những con buôn quanh tôi đã say ngủ với những chuyến đi quen thuộc. Xe dừng lại một bến xe bất hợp pháp trên phần đất khô cháy ven sông gọi là Hồng Ngự, nơi tôi chưa hề đặt chân đến.
Không kịp nghỉ ngơi chốc lát, sau hơn tám giờ xe chạy, người dẫn đường dẫn chúng tôi vào những ngôi làng ven sông tìm người chèo ghe để qua sông. Người dẫn đường đã thành thạo nhiều năm trong nghề, bà ta thuộc lòng những ngõ ngách, nơi chốn ở đây. Chúng tôi mau chóng tìm được chiếc ghe nhỏ qua sông. Người tài công chiếc ghe nhỏ có gắn máy đuôi tôm cùng ba chúng tôi luồn lách qua những con rạch chạy băng trong đêm mịt mùng. Tiếng máy ghe quá lớn làm tôi lo sợ, không hiểu tại sao những người đưa đường lén lút lại Sử dụng phương tiện máy nổ. Khi đi qua một đoạn, chúng tôi thấy rất nhiều ghe khác chở rất nhiều người, họ chào hỏi nhau hối hả, thông tin cho nhau những nơi cần tránh. Những chiếc đèn pin trong đêm quét thành từng vùng sáng trên sông nước Hồng Ngự. Đêm nay những chiếc ghe qua lại vội vã vẫn không quên những chào hỏi thân tình, họp nhau thành một chợ đêm huyên náo.
Cuối cùng, chúng tôi cũng qua sông, con sông ở phần cuối của quê hương. Tôi cảm nhận được những cơn gió lạnh của đêm về sáng. Đốt một điếu thuốc, vĩnh biệt quê nhà, chúng tôi đang ở phần đất đầu tiên của Cam Bốt, vẫn là quốc gia cộng sản, chúng tôi sẽ chạy thêm lần nữa. Tôi không hiểu cảm giác của những người đã rời xa đất nước như thế nào, với tôi đó là cảm giác kỳ diệu khi vừa biết mình rời khỏi biên giới tổ quốc. Bâng khuâng vô tả. Nhìn lại, vẫn đêm chưa sáng. Mà thôi, tôi đã chọn “đi” cơ mà!
Vừa qua sông, chúng tôi lại vất vả nhiều giờ liền đi bộ. Ở nơi đó không hề có một phương tiện nào để di chuyển. Những vùng đất biên giới thường giống nhau, khô cằn, ít sức sống và nghèo nàn. Lầm lũi đi, những nơi chốn không còn thích thú nữa để ghi nhận, đã là quê người. Hết đi bộ rồi lại đi xe, rồi đi bộ. Trời đã sáng hẳn, chúng tôi đã mất rất nhiều giờ cho cuộc vượt thoát mà vẫn chưa đi đến đâu. Rồi chúng tôi lên một chiếc tàu lớn, một loại phà như phà Bắc Mỹ Thuận. Lại qua Sông. Những hành khách trên tàu cũng đều là những người tự nguyện làm người bất hợp pháp. Tôi vẫn tự hỏi, nếu không có họ, có lẽ ngành giao thông vận tải nước tôi, nước bạn sẽ tê liệt, chết cứng. Đời nhiễu nhương ai mà nghĩ đến chuyện du lịch, thăm viếng nhau làm gì. Vài giờ qua sông, qua vài trạm gác, chúng tôi xuống tàu và đi xe ôm vào Nam Vang. Cuộc hành trình đã đi qua phân nửa.
Chúng tôi có vài ngày nghỉ ngơi, dò hỏi, chuẩn bị thêm vài thứ. Thời gian ở Nam Vang khá lâu, mất gần nửa tháng. Người dẫn đường phải liên lạc với tài công và thu xếp nhiều thứ trước khi đưa chúng tôi đi xa. Trong thời gian này, chúng tôi đi lại khá thoải mái ở Nam Vang. Phải nói Nam Vang là một thành phố khá lộn xộn và vô trật tự, nhiều rác và đĩ điếm. Chúng tôi đến các quán hủ tiếu Nam Vang để ăn những tô hủ tiếu Nam Vang chính gốc với những chén đường cát, chén bột ngọt la liệt trên bàn ăn. Tôi hiểu rằng, những tô hủ tiếu Nam Vang đã không còn chính hiệu, tệ hơn trăm ngàn lần những tô hủ tiếu ở Saigon. Tôi đã đi thăm đền vua, một vài danh lam thắng cảnh trong thành phố. Đây đó những kiến trúc hình tháp nhọn, cong vút như những biểu turong độc đáo của dân Chùa Tháp. Chúng tôi cảm phục nét văn hóa của Xứ sở này. Chung sống, tiếp xúc với nhiều người trong thời gian ở đây, tôi nhận ra người dân Cam Bốt quá thật thà, dễ mê tín, cam chịu bị trị hơn là được trị. Sự cuồng tín dễ dàng dẫn đến họa diệt vong. Người Cam Bốt là một viên ngọc quí mà người ngoại quốc là những người thợ mài giũa và tạo hình. Họ cũng là cục bột mà người láng giềng anh em tùy ý muốn làm nên loại bánh nào. Ở Nam Vang, người ta có thể mua mọi thứ với đồng tiền.
Sau nửa tháng ở Nam Vang, chúng tôi di chuyển đến vùng biển ở cuối Cam Bốt. Ở đây có bến cảng mang tên vua Shianook được thần dân mến mộ, đó là cảng Kongponsom. Mọi người không còn được tự do đi lại, bị giam lỏng trong một ngôi nhà dân.Ai ai cũng mệt mỏi, sợ hãi tăng lên, hoang mang, lo lắng. Càng gần đến đích, nỗi căng thẳng càng tăng dần lên. Ba tôi hốc hác thấy rõ, hay thở dài, dè dặt, ít nói hơn. Tôi cũng chẳng khá hơn, lo lắng, dù là nỗi lo không giải quyết được. Chúng tôi bàn bạc nhiều hơn về những khả năng phòng thủ những tình huống xấu nhất có thể đến, dự đoán cho những tương lai rạng rỡ ngày mai. Hy Vọng thật ít cũng lóe lên trong những ngày tuyệt vọng này. Tôi cũng thường cầu nguyện Thiên Chúa, đồng thời cũng cảm nhận ra rằng, khi yên vui hạnh phúc tôi ít khi nghĩ đến Ngài. Đêm chúng tôi thường ít ngủ, một tiếng động nhỏ, tiếng chó sủa cũng là một nỗi lo bất trắc. Trong lòng chúng tôi, nỗi hồi hộp theo từng giờ từng phút. Những đêm sâu, ba tôi thích hút thuốc và suy nghĩ, mắt thường bất động nhìn trừng Vào đêm. Cả một quãng đời đã qua có lẽ đã tái hiện, những ngày tháng gian nan trong quân ngũ là thời gian ba tôi trân quí nhất. Quân đội, chiến hữu với ông là một gia tài. Ông sinh ra để làm lính, ngoài lính ra ông không hề có một nghề nghiệp nào khác. Sẽ làm gì trong tương lai khi tuổi đã xế chiều trên quê hương xa lạ? Đó là nỗi ưu tư không rời Suy nghĩ của ba tôi.
Lại một buổi sáng lén lút, ẩn nấp như những buổi sáng đã qua. Chúng tôi xuống ghe câu có máy đuôi tôm, chiều dài ba mét, bề ngang một mét. Chiếc máy nổ cũ kỹ, vài can nước, vài gói mì ăn liền, chúng tôi vượt biển. Tôi và ba tôi nằm dưới lòng thuyền, trên đầu tấm bạt poncho che kín bên ngoài. Người ta chỉ nhận thấy chiếc ghe chài đang thong thả buông lưới và chầm chậm chạy. Ghe chạy được một, hai giờ ra biển mênh mông, không có tàu ghe qua lại. Chúng tôi được ngoi đầu lên để hít thở, trò chuyện. Đó là những thời khắc hiếm hoi và vô cùng sung sướng đối với chúng tôi. Ba tôi và tôi đều cao trên một mét bảy mươi lăm phân mà phải bó gối trong khoang thuyền có bề ngang một mét quả là bị biệt giam. Một chiếc ghe khác chạy qua, những chiếc ghe tuần tiễu chạy ngang, chúng tôi lại bị ém kỹ trong khoang thuyền.
Chiếc ghe chạy trốn với tốc độ chậm. Biển êm ả bỗng nhiên mây đen kéo tới, mưa xối xả, mưa như thù hận trút nước lên đầu những thuyền nhân tội nghiệp. Bên trong khoang thuyền, người tài công vẫn vững tay lái không có sự chọn lựa để quay về. Chúng tôi đã cách bờ quá xa không có một nơi nào an toàn để ẩn núp. Mưa lớn hơn, biển động mạnh hơn, chúng tôi mở tấm poncho trùm mặt ra để mưa tuôn xối xả lên mặt, lên người. Mưa lớn làm biển xanh đẹp bỗng đen ngòm đến rợn người. Thuyền lắc lư, chao đảo, chúng tôi bị xô ngã nhiều phía theo nhịp lắc lư của con thuyền. Những cơn ói mửa đến không còn một thứ gì trong cơ thể. Những viên thuốc say sóng không còn hiệu lực, có lẽ người bao chế thuốc say sóng chưa từng là người vượt biển Việt Nam. Tôi nhắm mắt lại, cái chết như đến gần hơn. Sự mệt mỏi khiến tôi không thể di chuyển theo ý muốn được nữa. Con thuyền như người say rượu. Ba tôi trợn mắt, đôi mắt lạc thần. Tôi bỗng sợ điều không may.
Người tài công vẫn nhìn về phía trước, anh chỉ có một con đường cùng phía chúng tôi. Anh không phải là người vượt biển tìm tự do, anh vượt biển vì tiền và sẽ trở về khi chúng tôi đến nơi an toàn. Anh ta còn quá trẻ, sự liều lĩnh là vốn để anh ta đi buôn khi không hề có thêm một của cải nào. Biển vẫn động, thỉnh thoảng những đàn cá lớn bắn mình lên khỏi mặt nước làm chúng tôi thêm lo sợ. Xa xa không có bóng một chiếc thuyền nào, bến bờ mịt mù không thấy đâu. Nỗi lo sợ tăng lên từng lúc. Đêm sâụ mưa lớn, chúng tôi mệt lả rδι thiếp đi. Biển êm lại lúc nào tôi không hề biết. Khi tỉnh dậy, ba tôi đang hút thuốc. Những vì sao trên bầu trời lại lóe lên hy vọng mới. Đêm vẫn âm u, chiếc ghe chầm chậm trôi vào đêm. Lúc này, tôi nghĩ đến hai chữ tự do, đến những năm tháng tù đày của ba tôi, đến những người đã và đang mỗi ngày tranh đấu cho tự do của con người. Tôi hiểu rằng, tôi phải sống. Tôi hiểu hơn giá phải trả cho hai tiếng tự do. Cuối cùng, chiếc ghe đã chạm vào bờ cạn nước. Gần hai mươi bốn giờ đồng hồ, chiếc ghe chở tôi đến bờ biển Thái Lan.
Chúng tôi sung sướng bật khóc. Tự do rồi ư? Chiếc ghe đã chênh vênh trên biển, trong bão, ra khỏi bão, không thể vỡ tan được nên phải cập bến an toàn. Ba tôi và tôi xiết chặt tay người tài công tỏ dấu cám ơn. Chúng tôi không cùng ngôn ngữ nên không thể trò chuyện. Tuy nhiên, có những tín hiệu con người trao cho nhau không có rào cản ngôn ngữ khi tấm lòng đã trào ra, nước mắt đã chảy, mím môi, gật đầu... Tôi muốn nói cám ơn người tài công thật nhiều nhưng không nói được. Tôi cảm phục anh ta biết bao đã đưa tôi một chặng đường cho một bắt đầu mới.. Ôi, nghề nguy hiểm của những người tài công thầm lặng như anh đã làm mới bao nhiêu cuộc đời, hạnh phúc thêm cho bao người đi tìm tự do. Chia tay nhau không cần lắm lời trao đổi, chúng tôi trao cho anh những vật giá trị mang theo cùng những đồng tiền còn sót lại. Những món vật đó là tiền trả công cho anh khi anh bình an trở về.
Tôi dự định đi sâu vào một ngôi làng chài ven biển nhưng ba tôi ngăn lại nói nên đợi trời sáng. Lúc ấy là một ngày cuối tháng Mười năm 1988. Chúng tôi nằm vật ra trên bãi biển dù nhiều muỗi nhưng chúng tôi đã mệt lả và ngủ vùi mau chóng. Ba tôi thức sớm ở một ngày mới trên phần đất tự do. Chúng tôi mỉm cười hân hoan, mệt mỏi tan biến và dự định di chuyển. Lạy Chúa, chung quanh tôi là một bãi mìn. Nếu đêm hôm qua ba tôi không ngăn cản, có lẽ... Kinh nghiệm chiến trường của ba tôi trong quá khứ đã sử dụng được việc. Đêm đến, chúng tôi nghe thấy nhiều tiếng súng nổ, vài người lính rằn ri chạy đến dẫn chúng tôi vào một đồn lính che chắn tạm bợ. Họ giống những tên cướp bóc. Chúng tôi bị trấn lột những quần áo mang theo và một ít vàng bạc. Sau đó, họ chỉ chúng tôi đi về một hướng khác. (Về sau tôi biết được họ là lính Para hay Khmer Đỏ gì đó lưu ngụ trên phần đất Thái và hành động tự tiện như thổ phỉ..)
Đi một đoạn đường ngắn, chúng tôi bị chặn lại tại đồn biên phòng Thái Lan. Những người lính biên phòng bịt mặt chúng tôi xét hỏi, lục soát. Sau vài giờ thẩm vấn, chúng tôi chứng minh được không phải là bộ đội cụ Hồ, họ đã đối xử với chúng tôi tốt hơn, cho thức ăn, thuốc lá và chở đến trại tạm giữ Normol. Vừa đến trại, chúng tôi bị lục xét lần nữa. Những tên lính Thái ở trại hung dữ, tàn bạo, đánh đập tôi tàn nhẫn khi vừa gặp mặt. Tôi không hiểu mình có tội gì. Tôi không phải là kẻ thù của họ. Món quà gặp mặt đầu tiên trên xứ sở tự do quả là thiếu công bằng với tôi, với những người Việt tị nạn đang bị giam giữ ở đó. Từ lúc đó tôi hiểu thêm một điều là, người ta có thể hành hạ nhau mà không cần là kẻ thù của nhau. Chúng lục xét và lấy những gì còn lại được coi là tốt nhất của chúng tôi. Chúng tôi không quan tâm lắm những gì đã mất, quá nhiều thứ đã mất, thêm một ít có sao đâu.
Khi chúng tôi đến trại Normol, lúc đó đã có khoảng hơn bốn người đang bị giam giữ ở đó. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, vài người lớn tuổi nhìn nhau chịu đựng gian khổ từng giờ. Trại Normol là địa ngục trần gian của những người kém may mắn cư ngụ. Những tên hung thần cai trị như anh Bao Thơ, anh Ba Một, anh Đon. Những hàng chữ vội vàng ghi lại của những người đến trước bằng than, bằng máu trên những bờ tường. Tôi hiểu những ngày địa ngục đã bắt đầu. Mỗi ngày những người trai trẻ phải vào rừng đốn củi mang về cho chúng. Đàn bà, người già làm Vệ Sinh quanh trại và nấu ăn. Những thức ăn của Cao Üy Tị Nạn mang đến cho chúng tôi gồm gà, cá, chúng tôi chỉ được ăn đầu gà, đầu cá, những phần ngon nhất là phần của những tên lính Thái.
Đánh đập, hành hạ người tị nạn là chuyện xảy ra mỗi ngày. Mỗi đêm, lúc cao hứng, anh Bao Thơ tập họp anh em lại và bắt hút cần sa. Nửa đêm đang ngủ say, chúng dựng mọi người dậy bắt nấu chè cho chúng ăn. Chúng là những con thú đội lốt người tàn bạo, mất nhân tính. Hút cần sa, ma túy nên hành động của chúng quái ác và hung hãn Vô chừng. Tôi đã từng thấy chúng bắt một anh vào phòng chúng, bắt anh ta há miệng ra để chúng nhổ vào miệng. Chúng bắt thanh niên trẻ vừa hít đất vừa la “Việt Nam ngu”. Chúng bắt họ nằm xuống hồ rau muống cho đĩa hút máu. Tội nghiệp nhất là những cô gái xinh đẹp, chúng muốn ai làm gì là phải phục tùng. Những ngày địa ngục dài đăng đẳng. Ngày lại ngày vẫn có nhiều người tị nạn Việt Nam đến trại bị bắt làm công cụ cho chúng. Thù hận ngút ngàn. Người Việt thâm trầm biết nhìn xa, nhẫn nhục nên không xảy ra Sự phản kháng nào.
Trong những ngày tháng này, tôi quen biết tên bạn trẻ, hắn là họa sĩ. Hắn thích vẽ tất cả những gì hắn nhìn thấy ở chung quanh. Hắn vẽ cả nỗi phẫn nộ lên giấy. Hắn có tên đầy đủ là Nguyễn Quang Trường. Dễ thương, can đảm tuy hơi nhỏ con, hắn được những tên lính Thái khoái bởi tài vẽ của hắn. Lắm khi hắn vẽ cả những tranh dâm ô theo yêu cầu của bọn lính Thái. Hắn cũng vẽ cả hình quốc vương Thái trên tấm tôn xi măng nhân ngày sinh nhật vua Thái. Nhờ ân sủng đặc biệt này, hắn giúp đỡ khá nhiều người trong trại lúc đó, kể cả tôi. Chúng tôi dễ dàng thân nhau vì có điểm chung là yêu thích văn học nghệ thuật. Những ngày khó khăn trôi qua sống dễ hơn khi có những người bạn thân cùng chia lửa.
Mỗi ngày vẫn có thêm người tới nhập trại làm bia cho bọn lính Thái hành hạ. Ba tôi có lần nói: “Chúng nó có sức mạnh bây giờ nhưng chúng ta không ở đây mãi. Sẽ có lúc...” Thằng bạn họa sĩ âm thầm vẽ nhiều hơn những điều chướng tai gai mắt xảy ra, những nơi chốn chính xác. Hắn ghi chép cẩn thận chuyện gì, ở đâu. Thuở ấy, tôi không hiểu hắn làm cái quái gì với những bức vẽ đó. Tôi cũng có anh bạn thân, sĩ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, ít nói, chừng mực có lúc đã thốt lên: “Tao sẽ trở về giải phóng Thái Lan trước khi giải phóng Việt Nam.” Sự nhẫn nhục nào cũng có giới hạn.
Ngày vui cuối cùng cũng phải đến. Nỗi chịu đựng được đền bù. Trại Normol lúc ấy đã có gần bảy mươi người đến theo nhiều đợt cách nhau một vài ngày. Người ở lâu nhất là bốn mươi lăm ngày. Người ít nhất cũng mười lăm, hai mươi ngày. Chúng tôi được Cao Ủy Tị Nạn đưa đến một trại tị nạn khác. Sau năm, sáu tiêng xe chạy, chúng tôi đến trại Banthad. Ở đây mọi thứ qui củ hơn. Chúng tôi được cấp phát vật dụng làm nhà, lương thực, đồ dùng cần thiết để ổn định cuộc sống chờ ngày định cư.
Trại Banthad vào cuối năm 1988 đã khá hoàn chỉnh có bệnh xá, bác sĩ, bưu điện, nhà thờ, chùa chiền và trung tâm dạy Sinh ngữ. Chợ búa mua sắm khá rộn rịp. Những ngôi nhà tranh, tre sắp hàng thẳng tắp thành từng lô, từng khu. Có cộng đồng, ban đại diện, văn phòng Cao Üy. Cuộc sống của chúng tôi được đền bù không còn bị hành hạ, ngược đãi. Chúng tôi yên tâm vui sống, học hành, sinh hoạt và chờ đợi. Ba tôi gặp lại những chiến hữu cũ. Những người lính năm xưa đứng ra gánh Vác chuyện cộng đồng, khu xóm. Những người lính cũ gặp lại nhau ồn ào ôn lại quá khứ, lập hội đoàn, giữ gìn an ninh trật tự cho mọi người. Họ là những người lính như năm xưa canh giữ quê nhà lần nữa.
. Tại trại Banthad vào thời điểm đó, nguròli ta sống chờ đợi và hy vọng định cư. Chúng tôi mau chóng hội nhập xã hội tị nạn mới, học Sinh ngữ, hội họp Sinh hoạt, thành lập nhóm những người yêu thích Văn học nghệ thuật mang tên “Hương Việt”. Những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ chuyên và không chuyên có chung ngọn lửa tâm huyết, thân phận tha hương sáng tác đều đặn, làm những tờ báo nhỏ trong trại, những tập thơ, tập nhạc. Đó là những điều bổ ích giúp chúng tôi vui sống và chờ đợi.
Thời gian này ba tôi làm việc ở cộng đồng trại. Ông quen biết vài nhân viên Cao Ủy Tị Nạn và nghĩ đến việc khởi tố những tên lính Thái ở trại Normal. Sự việc khá thuận lợi với sự ủng hộ của những nhân viên Cao Ủy. Các tranh vẽ, ghi chép của anh bạn Nguyễn Quang Trường đã trở thành vật chứng. Tôi là người thảo đơn kiện. Nhân chứng là những đồng bào tị nạn Việt Nam.
Đến một ngày giữa tháng Sáu năm 1990. Gần hai năm sau ngày vượt biển qua bao nhiêu khó khăn thử thách, đến lượt tôi ra đi. Bạn bè đến từ giã khá nhiều, buồn vui lẫn lộn. Ở thì khổ mà ra đi lại không nỡ. Tên họa sĩ bạn tôi ở lại, hắn già đi, tóc tai rũ rượi. Những cuộc tình hư hao qua những trại tị nạn khiến gương mặt hắn méo xẹo đi. Hắn vẫn ở lại trại Panat bởi vụ kiện đã đi vào hồi kết thúc, người ta cần hắn như một nhân chứng chủ yếu nhất. Hắn nói với tôi rằng: “Ông ráng sống cho ra trò nhé!” Sống làm sao cho tra trò đây Nguyễn Quang Trường?
Những người lính năm xưa đến tiễn ba tôi khá nhiều. Bao giờ cũng ồn ào tâm sự, cũng niên trưởng, cũng chiến hữu, cũng cấp bậc gọi thưa. Tôi không hiểu kỷ luật nào đã giữ lại mãi điều đó trong lòng họ. Cuộc chiến đã kết thúc lâu lắm rồi.
Từ giã Panat, xe chạy đến phi trường Bangkok đưa tôi qua những đô thị trù phú của Thái, những xa lộ chồng chất trên cao. Tôi chợt nhận ra, Bangkok đã bỏ xa Saigon, quá xa. Rồi Seoul, Đại Hàn, mỗi nơi chốn đi qua đều để lại một nỗi xấu hổ về quê nhà. Quê người văn minh hiện đại quá. Con người đối xử với nhau lịch thiệp hơn. Rồi đến phi trường Los Angeles, tôi như một thằng nhà quê ra tỉnh chóa mắt bởi hào nhoáng quê người. Tôi cúi mặt, vòng tròn tị nạn đã khép kín. Từ quê nhà đến quê người, tôi đã mất gần hai năm.
Đến Mỹ không bao lâu, tôi nhận được tin Vui từ thằng bạn họa sĩ còn ở lại Panat. Hắn cho tôi biết vụ kiện đã kết thúc. Một bản án nhiều năm tù đã chia đều cho những tên lính Thái.
Tôi bật khóc vì sung Sướng. Tôi không quan tâm đến bản án, quan trọng hơn cả là công lý đã được thực thi công bằng với người tị nạn Việt Nam. Ngày ấy, tôi đã nhắm mắt lại, trong tâm tưởng tôi mơ thấy một đài tưởng niệm thuyền nhân to lớn, sừng sững. Tôi đã là người may mắn đi và đến. Còn biết bao nhiều đồng bào thuyền nhân đã đi mà không bao giờ đến. Họ chết trên hoang đảo, giữa biển sâu, trong rừng vắng. Họ là những chứng nhân nghiệt ngã của đất nước vào thời kỳ đen tối nhất. Không ai có thể thống kê đầy đủ về họ. Chúng ta là những thuyền nhân may mắn hơn nên làm một tượng đài cho họ.
Ο Mỹ tự do, dân chủ, cuộc sống mới, cuộc đời mới, tôi bước qua một chương khác không kém bi thương. Tha phương, hội nhập không dễ dàng gì với tôi. Nhưng có làm sao đâu, chúng ta đã từng sống trong khó khăn, học từ đó những bài học kinh nghiệm. Tôi tin không khó khăn nào có thể làm khó được những người tị nạn Việt Nam. Ngày nay có dịp đi qua những thành phố lớn trên thế giới, nhìn thấy những thành công của những người tị nạn năm xưa, tôi không hề ngạc nhiên. Họ xứng đáng nhận được nhiều hơn những điều như vậy.  u cũng là lẽ bù trừ. Chúng ta đã mất đi khá nhiều nhưng chúng ta đã làm được không ít. Ngày nay, thuyền nhân đã là vốn lớn về tri thức, của cải.
Mười lăm năm đã trôi qua, câu chuyện tưởng chừng như đã trở thành cổ tích. Tôi viết lại những kỷ niệm của riêng tôi để chia sẻ cùng bạn đọc. Mong rằng chúng ta sẽ gặp lại nhau đâu đó với những kỷ niệm còn Vương trong các trại tị nạn, trên biển, trong dòng đời lưu lạc quê người. Chúng ta đã là thuyền nhân của ngày hôm qua nhưng chúng ta đã bắt được nhịp cầu cho ngày mai, cho những thế hệ nối tiếp không còn làm thuyền nhân.
(Xin bạn đọc thứ lỗi cho những sai sót về những địa danh trong truyện kể. Người viết ghi lại theo tên gọi có thể khác biệt với phiên âm...)

-Nguyễn Hoàng

Nguồn:  sưu tầm
Đọc thêm những cuộc hành trình vượt biên khác
​
Powered by Create your own unique website with customizable templates.
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness