Giá Của Tự Do
Ngày 29 tháng Chín năm 1983
Bốn ngày trước, nơi vùng đất Bà Rịa, buổi chiều định mệnh, họ bỏ lại tất cả và quê hương thân yêu đi tìm đất mới.
Bôn ngày sau, con thuyên với Sáu mươi lăm người bông bênh trên đại dương bao la.
Bốn ngày qua, thể xác và tinh thần họ đã trải qua những giây phút cực sôi động trong đời họ. Sức khỏe thể xác và tinh thần họ đang dần hồi phục sau những ngày khổ nhọc. Niềm vui thoát khỏi nguy hiểm vòng vây cộng sản và niềm hy vọng tràn trề về đất mới tràn ngập tâm hôn ho.
Giờ đây họ mới có dịp làm quen nhau, kể cho nhau nghe đêm vượt biên phải trải qua bao nhiêu đoạn đường lo sợ, núp Sau những lùm cây sậy và bị muỗi chích mấy chục mũi, cách nào đã dành dụm tiền đi, vượt biên mấy lần, biết được mấy thuyền đi êm xuôi. Những mẩu chuyện lý thú như để quên đi cảm giác mênh mông chơi vơi giữa biển cả. Đám căn me (những người biết được có thuyền vượt biên đã canh giờ giấc leo lên đi không trả một đồng tiền vé nào) không dám nhất cử nhất động vì sợ bị làm khó dễ. Mải mê trò chuyện cho tới khi ánh nắng của những ngày cuối tháng Chín mất hẳn. Mọi người chuẩn bị một ít gì để ăn tối bỗng bầu trời như có điều gì lạ. Hồi chiều, sau khi hoa tiêu bẻ lệch hướng tránh những tàu đánh cá Thái Lan vì sợ hải tặc (hải tặc Thái Lan có tiếng trên tuyến vượt biên), thời tiết như đã có thay đổi. Đến lúc này, bầu trời xám xịt, gió mạnh thổi tới, Sóng gió nổi dậy. Con thuyền bắt đầu nhào lộn với sóng gió, tự do cuốn theo những khối nước khổng lồ của đợt sóng. Nước biển bắn lên văng tứ tung làm mọi người ướt như chuột lột. Trong hầm của con thuyền dài mười hai mét, ngang VỞn vẹn ba mét, sáu mươi lăm người chen chúc nhau la hét om sòm. Những khuôn mặt tái xanh sợ hãi. Mọi người trấn an nhau bằng những lời chan chứa nét lạc quan, những câu kinh nguyện Thượng Đế. Sau mấy canh trường nhào lộn với sóng gió, thiên nhiên đã nhường phần thắng cho con thuyền. Ai nấy lại hoàn hồn với một hơi thở dài. Hú vía!
Ngày thứ năm của cuộc hành trình gói ghém ít câu hỏi với hoa tiêu về thời gian và khoảng cách khi nào thuyền sẽ cặp bến. Họ được giải đáp thích đáng, trễ là hai ngày nữa, còn không là sáng mai thôi. Sinh hoạt vẫn bình thường, họ kể cho nhau nghe những câu chuyện bỏ dở chen thêm vài mẩu chuyện gẫu giết thì giờ. Mọi người mong đợi.
Hai ngày. Sau...
Bảy ngày trôi qua. Ngày thứ tám bắt đầu với những thắc mắc tại sao chưa thấy bến bờ, tại sao kể từ ngày tránh tàu đánh cá Thái Lan cho đến hôm nay không gặp mảy may con thuyền hay tàu lớn nào. Đại durong, bầu trời, và con thuyền của họ. Chẳng lẽ hoa tiêu chấm sai tọa độ? Hoa tiêu thoái thác với những lý do không vững. Đầu óc họ nhen nhúm ý nghi ngờ. Hoa tiêu vớt vát: “Bà con yên tâm. Thôi, đổ thêm dầu vào. Thế nào chiều nay cũng có dấu hiệu.” Can dầu cuối cùng đã trút gọn vào bình chứa.
Chiều đã đến, họ chưa thấy một dấu hiệu gì là đảo hay đất liền. Chẳng những vậy mà còn có cảm giác đang ở một nơi nào đó thật xa xôi bờ bến. Đêm đến rồi gần sáng. Tiếng máy thuyền nổ đều ru họ vào giấc ngủ chập chờn miên man bỗng sục sặc vài tiếng rồi tắt hẳn.
“Hêt dâu.” Tiêng nói của một người nào đó. Hết dầu!? Mọi người chồm dậy ngỡ ngàng. Hêt dâu? Hêt dâu
Như sét đánh bên tai. Làm sao thuyền chạy được? Làm sao vô bờ được?
Nỗi kinh hoàng hiện rõ trên những nét mặt ngơ ngác như chưa muốn tin những gì mình vừa nghe. Làm sao có thể như vậy được? Anh hoa tiêu có điều gì muốn nói không?
- Bà con hãy bình tĩnh. Tuy hết dầu nhưng chắc chúng ta đã gần một hòn đảo hay đất liền nào đó. Thế nào cũng có tàu thuyền phát hiện ra chúng ta. Hơn nữa, chúng ta còn có nhau.
Vậy là dầu hết thật. Lạy Chúa, lạy Phật, xin cứu chúng con qua khỏi cơn hoạn nạn.
Ngày vắng vẻ, đêm cô quạnh.
Chín ngày qua tai họ đã quen với tiếng máy nổ đều đều. Nay âm thanh đó không còn nữa, họ cảm thấy thiếu một gì đó, thấy lẻ loi hơn. Ngày đầu, họ thả neo và trông đợi tàu thuyền nào đó biết được sẽ tới cứu. Ngày thứ hai qua đi, rồi ngày thứ ba, họ không thấy một vật gì ngoài bầu trời và biển đã quyết định kéo neo để cho con thuyền trôi. Nó trôi đi đâu? Biển cả bao la, đâu cũng là đâu. Lương thực, nước uống chẳng còn bao nhiêu. Họ lo mạng sống sẽ ra sao. Họ trôi qua từng ngày dài, đêm dài. Ngày sóng gió mệt lả. Ngày nắng chói chang. Không một tia hy vọng. Đêm xuống làm cho không gian bao la thêm tĩnh mịch. Đêm chơi vơi. Đêm vô bờ bến. Một ngày đi qua là một vết tẩy lên bức tranh hy vọng của họ. Một ngày mới là một thách đố tâm trí trước mắt họ. Thế là hết. Những ước vọng, những bức tranh đẹp nơi chân trời mới đang dần nhạt đi. Họ miên man về quá khứ. Chỉ hai tuần trước thôi, họ chưa thấy những gì đang xảy ra. Hôm nay, họ tự đặt câu hỏi với chính họ, giá phải trả cho miền đất hứa là gì đây? Tại sao xui xẻo đến vậy? Tại sao nhiều thuyền đã vượt qua êm xuôi? Họ quay cuồng với những thăc măc và Sô mạng của họ.
Đã hơn một tuần con thuyền chở họ cứ trôi dạt đâu đó. Thỉnh thoảng, xa xa trong đêm tối hay giữa ban ngày, họ thấy được những tàu buôn thật lớn. Ba chữ “SOS” và ánh lửa heo hắt trên biển cả không đủ lớn để diễn tả hoàn cảnh hay những con tàu kia cứ dửng dưng coi như đó là bữa tiệc vui không muốn tham dự. Nhiều người cố ý mừng thầm rằng đó là một trong những con tàu đi vớt người vượt biển. Nhưng nó không giảm tốc độ, cứ tiến thẳng. Tia hy vọng chưa kịp lóe lên đã bị dập tắt. Một cú điện thoại hay dăm ba chục lít dầu thôi, biết đâu họ đã vô bờ bến sau một vài ngày và đã cứu được biết bao nhiêu mạng sống. Họ tiếc rằng, sao con tàu buôn đó không bố thí cho họ chừng ấy phúc đức. Tới hôm nay họ đã mệt mỏi lắm rồi. Lửa củi cũng đã hết.
Cuộc hành trình đang trôi nổi vào khoảng ngày thứ hai mươi, hai mươi mốt. Lương thực hết, nước uống hết. Vài cá nhân mang theo được một ít lương thực cũng chỉ kéo dài lâu hơn vài ngày. Vì là con người nên đã có những ẩu đả xảy vì miếng ăn. Có những chuyện thật vô duyên
nhur: - Ông ơi cho con miếng sữa để đắp vào chỗ chảy máu. - Thằng X đánh làm đầu con tét ra nè. - Bà ơi cho con miếng khoai. Chân tay con không cử động được nữa mè.
Chẳng ai còn lại một miếng ăn hoặc một giọt nước nào. Ba, bốn ngày qua họ không có gì để ăn uống. Họ cảm thấy khổ sở, vô dụng. Làn nước biển trong xanh như ngọc nhưng không uống được làm cho họ thêm điên dại. Họ đãi miệng nhau bằng những món ăn họ đã được thưởng thức ở nhà hàng này, nhà hàng kia khi còn ở Saigon, Đà Lạt... Sơn hào hải vị cứ thế được bày ra đầy dẫy trong khối óc của họ. Họ ăn uống thật ngon, thư giãn gân thịt để những hương vị đậm đà đó thẩm dần vào trí tưởng tượng của họ. Họ ăn bằng tâm trí. Tâm trí no đầy còn bao tử trống rỗng. Xót xa.
- Ba ơi, con đói quá.
- Mẹ ơi, con khát quá.
Tiếng khóc xé trời giữa biển cả vì đói khát của những em bé chưa đầy một tuổi đời vang vọng, âm thầm xé nát tâm can của những người làm cha mẹ. Bao giòng nước mắt khô héo vàng vọt không e thẹn não nề rơi trước cảnh đời đói khát của trẻ thơ. Tiếng khóc, tiếng than nhỏ dần, chỉ nghe tiếng rên rỉ.
Ngày thứ hai mươi bảy.
Sáng trời trong, biển yên. Ông mặt trời đang dần trồi lên cuối chân biển. Những cơ thể rời rạc và tâm trí mơ màng đang giằng co với đêm bao la mộng mị bỗng nghe một giọng thất thanh thét lên phá vỡ sự yên lặng, tĩnh mịch:
- Thằng A chết rồi. Thằng A chết rồi bà con ơi!
Mọi người giật tỉnh. Họ xôn xao vây quanh một thanh niên khoảng hai mươi lăm hoặc hai mươi sáu tuổi nằm dài trên bong thuyền. Tấm thân anh ta đã gầy guộc thêm vào nhiều ngày không ăn uống nhìn như bộ xương ngụy thêm lớp da mỏng. Qua mọi cách có thể được họ thử xem thanh niên đã chết thật chưa. Sau một lúc, họ không còn nghi ngờ gì nữa. Một cái chết. Tâm trí họ không giấu nổi sự hoang mang dù biết trước sẽ có ngày này. Tuy thế, họ không ngờ cái chết đầu tiên lại sớm như vậy. Chỉ không ăn uống ba, bốn ngày chưa đến nỗi phải chết. Họ nghĩ có lẽ anh ta không chịu được sóng gió nên bấy lâu nay không ăn uống được nên không còn sức chịu đựng. Lời kinh cầu cô đơn vang lên giữa đại dương bao la. Họ cầu xin Thượng Đế cho linh hồn anh ta được về nơi an nghỉ tốt lành. Ngày dài lê thê trôi vào đêm đen hơi hám cõi âm tới ám ảnh tâm trí họ. Họ nghe được những âm thanh văng vẳng từ bên kia thế giới trồi lên là đà trên mặt biển. Những tiếng kêu vang thống thiết trầm bổng bi thương bao bọc lấy con thuyền. Có người kể rằng nghe được tiếng hát bi ai ở một nơi xa xôi nào đó. Những giấc ngủ chập chờn trôi vào mê man.
Đêm man rợ đi qua. Xác anh A còn năm đó. Họ bàn tán nên làm Sao Với xác anh ta. Giữ lại thêm vài ngày nữa hay nên thủy táng anh.
Một lúc sau, họ thì thầm thêm vài lời kinh cầu. Kính cẩn long trọng nói với anh ta mấy lời từ biệt rồi quyết định thủy táng anh ta. Họ không muốn giữ lâu vì sợ tinh thần bị khủng hoảng khi cái chết cứ lù lù nằm đó. Biển khá êm nên xác anh không trôi vội cứ như muốn bám theo con thuyền, rồi từ từ xa dần. Mọi người nhìn theo, nghĩ tới số phận của họ. Từ ngày đó, họ sợ đêm tối hơn.
Vài ngày nữa trôi qua, cơn đói dữ dội hơn, cơn khát càng làm cho họ hoang mang. Một số người gỡ gỗ thuyền ra gặm như con Sóc gặm hạt trái cây như để an ủi bao tử xấu số đang “thất nghiệp”. Làn nước trong xanh thật quyến rũ, đã nhiều lần họ định nhắm mắt uống thử nhưng lại thôi. Bữa nọ, một người thấy được trong làn nước có một vật gi màu xám lúc hiện lúc ẩn. Mãi một lúc sau, anh ta phát hiện ra một đàn cá con bám theo hông thuyền mà bơi như để tránh sóng. Thế là họ nghĩ cách Vớt cá. Mảnh lưới được cắt ra làm thành những vợt nhỏ. Họ đồng ý, vớt được bao nhiêu chia đồng đều cho mọi người. Cũng có vài người tìm cách giữ lấy cho riêng họ. Những con cá nhỏ chừng nửa ngón tay út bị họ bỏ tõm vào miệng nhai một cách ngon lành. Một anh thanh niên vừa cầm được con cá mừng quá hối hả đưa ngay lên miệng. Chú cá vừa bị bắt vẫy vẫy tuột ngay vào họng anh ta, đuôi vào trước nên khi tuột tới cổ họng hai cái vây đâm dính vào đó. Anh ta đau đớn, trợn mắt, hai tay quờ quạng cầu cứu. Một thanh niên đứng bên cạnh nhanh tay bóp miệng anh bị hóc, thọc ngón tay vào cổ tìm cách móc con cá ra hoặc dy nó vào. Sau một phút, chú cá tuột hẳn vào ruột, miệng anh ta lép chép máu.
Nhiều người không dám ăn hết nguyên phần một lần, dù chỉ có hai hoặc ba con. Họ cắn một nửa, nhai từ từ đến khi miếng cá nhừ nhuyễn mới cẩn thận nuốt. Có một gia đình dành dụm được vài chục con. Người cha xâu thành một dây cột lại như xâu chuỗi và cẩn thận đeo vào cổ. Một số người hùn cá lại khoảng vài chục con, kiếm lon đổ nước biển vào để muối. Họ chia giờ giấc canh giữ lon quí giá ấy, cũng có lúc nghe phong phanh có ai đó hớp đi một miếng. Đàn cá luẩn quẩn thêm được mấy ngày rồi bỏ đi. Đã có nhiều người nghĩ rằng anh A đã dắt đàn cá tới cho họ. Họ cầu mưa để có nước uống nhưng mưa vẫn không rơi. Những giọt sương đêm lấm tấm dính trên mảnh kính của ca bin thuyền
được họ lè lưỡi ra liếm mỗi buổi Sáng. Tạt nước biển vào mặt, nhảy xuống tắm là cách tốt hay không họ vẫn làm. Đến hôm nay, đã có nhiều người không chịu nổi sự quyến rũ của làn nước biển, họ đã cố nhắm mắt nuốt một hớp. Sau một lúc, họ quằn quại trong cơn xót xé ruột của chất muối. Miệng họ thở ra những hơi thở thối nghẽn mũi.
- Bà con ơi, ai có nước cho con tôi một hớp tôi xin biêu nhân hai chỉ đây.
- Ong Trời ơi, xin cho mưa Xuông, tôi nguyện sẽ đi tu suôt đời khi tới được bên bờ.
Đó là những lời cầu xin của những người làm cha làm mẹ. Ngày thứ ba mươi ba.
Bờ bến vẫn mịt mù. Thuyền tàu đâu chẳng thấy. Sáng, một người mẹ khóc nức nở. Đứa con gái chưa đầy một tuổi duy nhất của cô đã chết. Nó chết từ lúc nào không ai hay biết. Thân thể đứa bé được quấn gọn trong mảnh vải đơn sơ khiêm tốn như cuộc đời bạc phước ngắn ngủi của em. Hai tay ôm chặt xác con, giòng nước mắt rã rời buông, miệng lẩm bẩm những gì nghe không rõ, từ ngày đó trở về sau, cô thường tự nói chuyện với chính mình như người không hồn. Sau vài lời kinh nguyện, mấy lời chia tay, em bé nằm trong lòng đại dương bao la. Bây giờ họ mong, họ ước, họ trông đợi phép lạ xảy ra đưa con thuyền giạt vào một nơi nào đó. Một bờ biển hoang hay một đảo hoang cũng có thể cứu họ. Họ sẽ bắt đầu lại cuộc đời ở đó. Nhưng chuyện họ mong ước không xảy đến. Những ngày dài cứ trôi qua. Hoa tiêu là người kế tiếp về với biển và liên tục những cái chết âm thầm cô đơn. Chết ngồi, chết nằm, chết dựa vào mạn thuyền.
- Than ôi! Thằng con thứ hai của tôi cũng chết rồi. - Bà con ơi, tôi lại mất thêm đứa cháu nữa. - Trời ơi! Anh, em tôi cũng chết rồi.
Có những dấu hiệu họ nghĩ đang ở một nơi nào đó rất gần bến bờ.
Bữa nọ, có con chim gì như chim én bay lượn quanh một lúc rồi đậu trên mũi thuyền. Chim lạc bầy chăng, nó có vẻ mệt lắm. Nhiều người dè dặt bảo nhau không nên đụng đến nó vì sợ điềm xui xẻo sẽ tới. Nhưng con chim không tránh khỏi số mạng, nó bị vặt lông và bị ăn tươi nuốt sống. Một lần kia, họ thấy được vài khúc gỗ bám đầy những con hào nhỏ như con ốc gạo, họ vớt lên và gỡ chúng ra bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Lại có lúc họ thấy lờ mờ xa xa như những rặng núi. Đã có lần có người bám theo phao bơi về hướng đó nhưng một lúc sau anh ta bỏ Cuộc.
Một ngày nọ, sau khi cơn đói khát đã giết đi một số người, trời lại
trở gió. Sóng gió vẫn thường xảy ra nhưng hình như có điều gì lạ hơn những lần trước. Bầu trời chuyển mình nhanh như một tay phù thủy cao phép biến bông hoa thành con rắn độc. Từng lớp sóng cuồn cuộn đưa con thuyền lên trời cao rồi lại dập vùi nó xuống vực sâu. Những ngọn sóng lớn đi qua như muốn nuốt gọn nó vào lòng khối nước khổng lồ. Ít người tin rằng con thuyền sẽ vượt qua được cơn thịnh nộ của biển cả. Trong khi mọi người đang nhừ tử, trời mưa đổ xuống. Mưa rơi!
Mura xuống như liều thuốc tiên tiêm vô cơ thể mọi người. Họ bật dậy ngửa cổ hứng những giọt nước mát ngọt ngào của thiên nhiên. Từng nhóm ba, bốn người kiếm mảnh ny lông chụm lại cố bám vào mạn thuyền để hứng nước. Họ vừa hứng, vừa uống. Từng giọt nước mưa trong mát như ngọc thấm vào mọi người làm sống lại một phần cơ thể của họ. Họ đang loay hoay với những lọ, bình, bỗng một ngọn sóng lớn đập tới. Kế đó là một tiếng “bùm”. Những cặp mắt lảo đảo đưa nhìn. Họ thấy một thiếu niên đang cưỡi trên ngọn sóng lớn. Nhiều người chưa kịp phản ứng, một thoáng qua, một khoảnh khắc ngắn, họ thấy một bóng người phóng theo thiếu niên kia. Một ngọn sóng nữa ập tới, hai bóng người đã xa con thuyền một khoảng cách không thể cứu vãn được. Nửa phút trôi qua, xa xa thấp thoáng hai cánh tay chới với giơ lên như muốn nói lời từ giã. Những cặp mắt bất lực trước hoàn cảnh đau thương nhìn theo ngậm ngùi. Từ vài ngày đầu của chuyến vượt biên, hai thiếu niên gặp nhau trò chuyện và mến nhau từ đó. Hai người đã kết nghĩa anh em và thề sống chết có nhau. Trong khoảnh khắc không tính toán lợi hại trước tai nạn, phản ứng của anh ta là lao xuống cứu người em kết nghĩa.
Anh ta không có thì giờ để thấy được hậu quả hay đã coi thường sức mạnh của ngọn sóng. Dù sao đi nữa, anh đã ra đi và để lại trong lòng mọi người niềm xúc động thiết tha và sự kính nể về nghĩa cử của anh. Nghĩa cử đó là niềm khích lệ và cũng là cú đánh đau vào lương tâm cuộc sống hỗn độn của cộng đồng đó.
Ngày thứ bốn mươi bốn.
Chiều đã xế tà. Xa xa cuối chân biển thấp thoáng những cụm mây đan thành dãy núi. Mặt biển lao chao sóng. Con thuyền đã trôi tới đâu? Những lời kinh cầu rời rạc vẫn thường phá vỡ sự chơi vơi và cô đơn giữa biển trời, tuy lòng tin và sự phó thác nơi đấng siêu nhiên như đã phai mờ dần trong tâm họ. Đã có nhiều người không phân biệt được tiếng động của vật thể hay tiếng động của ảo giác gây ra. Họ nghi ngờ thính giác và thị giác của họ. Bóng đêm đã buông xuống, thân xác họ vẫn cứ giằng co với cõi âm. Bỗng có tiếng động cơ nổ đâu đó lớn dần. Khi chăng còn ai nghi ngờ ở tai mắt mình nữa, một tàu đánh cá xuất hiện đã dừng hẳn với khoảng cách mười lăm, hai chục mét. Đèn pha chiếu sáng. Bên kia tàu bóng người nhấp nhô đang thì thầm với nhau những gì đó. Con thuyền xấu số cứ lao nhao như người sắp đuối chụp được phao. Họ quì gối lạy lục xin cầu cứu. Những lời van xin thống thiết não nề hiện rõ và tuôn ra từ miệng họ. Họ vứt ngay xuống biển một xác chết đã tắt thở tự lúc nào mà chưa kịp đọc vài lời kinh siêu thoát trước sự chứng kiến của con tàu nọ. Sau một lúc lao nhao với bối cảnh đó, thủy thủ tàu kia quăng sang ít gói lương thực, quơ tay như muốn diễn tả một tín hiệu gì đó, rồi rú ga quay mũi phóng đi. Sau đít tàu in chữ “Taiwan” thật rõ. Một ít mì ăn liền, dăm bảy lon nước ngọt và chừng một chục trái cam. Bốn mươi mấy người chia nhau chừng ấy lương thực. Tia hy vọng mong manh sẽ được cứu thoát hé chiếu lên trong tâm trí mọi người tuy nhiều người tiếc rằng tại sao con tàu kia không cứu họ. Con thuyền tiếp tục lênh đênh.
Buôi sáng băt đâu ngày thứ bôn mươi chín.
Bốn mươi chín ngày qua, con thuyền không để lại một dấu vết trên con đường nó đã đi qua ngoài những xác chết được thả xuống biển không biết có kịp thời giờ để chìm vào lòng đại dương, hay đã là mồi ngon cho cá biển. Chơi vơi, mê man, chập chờn, họ luôn tự nhủ chớ ngủ say vì có thể sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa. Tuy mấy ngày qua họ đã có một ít đồ ăn nhưng không đủ, thêm vài người nữa ra đi vào lòng biển cả. Họ đã mệt mỏi mong đợi bến bờ như họ đang mệt mỏi mong chờ cái chêt.
“Con tàu kia trở lại!” Giọng thất thanh của một người nào đó.
Quả thật vậy! Con tàu đánh cá họ đã gặp cách đây chừng một tuần trở lại. Ánh mặt trời đã chiếu sáng sau đêm tối. Con tàu kia trở lại là ánh đèn chiếu lên nỗi tuyệt vọng của chuỗi ngày sống trong nỗi kinh hoàng ghê sợ. Họ cho mấy can dầu, thêm ít lương thực như lần trước Và thêm vài gói thuốc lá, lửa và một vài chai rượu gì đó. Họ ra dấu hiệu chỉ cho phương hướng rồi rú ga quay mũi bỏ đi. Con tàu đã chạy một khoảng xa, những vái lạy và cảm tạ mới ngưng dần.
- Có dầu rồi! Có dầu rồi! Không lẽ chúng ta đang sống lại từ cõi chết?
Họ bắt đầu quay. Một lần, hai lần, nhiều lần. Máy không nổ. Nguyên ngày hôm đó, họ cố gắng lau chùi và sửa máy. Một ngày nữa lại qua đi.
Ánh mặt trời nóng dần, họ tiếp tục việc bỏ dở từ tối hôm qua. Xác một thiếu niên vừa tắt thở đang nằm kia. Có nhóm người đang xì xào chuyện gì đó. Một “cuộc họp” bất chợt được điều động. Mặt trời đã đứng bóng. Nét mặt nhiều người đượm vẻ đăm chiêu. Nhát rựa đầu tiên cắm vào xác thiếu niên kia. Kế tiếp là tiếng cắt chặt vang động khắp con thuyền. Họ múc nước biển, gỡ ván thuyền và nấu. Thịt chín kèm theo ngụm rượu, họ nâng chén Xin tha lỗi cho nhau. Làn khói thuốc mơ hồ mỏng manh như ẩn hiện cưu mang nặng trĩu sự dã man.
Quay, quay, và quay. Mồi lửa vào. “Bịch, bịch, bịch...”
Mọi người ngưng lời cầu nguyện nhìn nhau trừng trừng không nói được lời nào. Miệng lem lém những vết máu thâm, họ ôm nhau hôn hít như điên. Cơ thể họ như được Thượng Đế thổi hơi sống vào. Tiếng la hét nổi lên. Những cử chỉ và hành động của họ lúc đó là của những người điên. Họ trấn tĩnh nhau. Vài phút trôi qua, con thuyền nhồi mũi lên và phóng về hướng con tàu đánh cá đã chỉ dẫn. Tiếng máy nổ như tiếng kêu gọi đàn cá khổng lồ tới. Chúng xếp thành hai hàng và phóng trước mũi thuyền như dẫn dắt nó tới bờ bến. Có phải một con cá là một linh hồn đã ra đi của con thuyền?
Họ trông mong dấu hiệu bến bờ.
Trời đã tối. Họ nấu tiếp “phần ăn” còn lại. Con thuyền mò mẫm tìm bến bờ trong đêm tối. Nó miệt mài, không tìm được bến bờ. Đến mười giờ, xa xa hiện ra những chấm Sáng. Tọa độ được chỉnh và trực chỉ hướng đó. Sáng dần, sáng dần. Khi chẳng ai phủ nhận đó là giàn khoan, tiếng khóc la của mọi người là lời diễn tả sự vui mừng đích thực nhất của họ lúc đó. Một số người đã được trực thăng đưa vào bệnh Viện cấp cứu ngay khi thuyền vừa được vớt. Hành trang của họ còn lại là những miếng “thịt”. Đêm đã qua. Họ cό chập chững Vịn thành lan can của giàn khoan ngó ra biển khơi. Mỗi người cho nhau một cái nhìn. Hình như tất cả đều có một cảm giác nợ nần những linh hồn đã ra đi trên biển cả. Bao bóng hồn quá vãng là đà trên mặt biển. Chúng tôi mang ơn họ nhiều lắm. Con tàu lớn đang kéo con thuyền bé con chợt dưng phóng nhanh. Con thuyền từ từ ngắc ngoải chìm vào lòng đại dương. Nét khổ ải kiên nhẫn miệt mài nay trở về với biển. Tuổi đời của nó chỉ vỏn vẹn một năm nhưng sứ mạng của nó đã hoàn thành. Xin cám ơn một vật vô tri. Chúng tôi vào đất liền và được Hội Hồng Thập Tự chăm sóc. Hơn một tháng sau mọi người mới tạm bình phục. Một tháng sau nữa, mọi người có mặt trên đảo Pulau Bidong, Malaysia. Chân họ đang đứng trên mảnh đất tự do. Miền đất hứa thật sự đang chờ họ.
Kê từ đây, họ băt đâu cuộc Sông tị nạn.
(Tôi không muôn nêu rõ tên thật của những người tôi đã Viêt về họ. Nêu có ai cùng đi chung thuyên. Với tôi đọc được bài Viêt này, Xin hãy coi đây là cái nhìn của một thiếu niên mười lăm tuổi lúc bây giờ.)
-Trần Văn Hương
Ngày 29 tháng Chín năm 1983
Bốn ngày trước, nơi vùng đất Bà Rịa, buổi chiều định mệnh, họ bỏ lại tất cả và quê hương thân yêu đi tìm đất mới.
Bôn ngày sau, con thuyên với Sáu mươi lăm người bông bênh trên đại dương bao la.
Bốn ngày qua, thể xác và tinh thần họ đã trải qua những giây phút cực sôi động trong đời họ. Sức khỏe thể xác và tinh thần họ đang dần hồi phục sau những ngày khổ nhọc. Niềm vui thoát khỏi nguy hiểm vòng vây cộng sản và niềm hy vọng tràn trề về đất mới tràn ngập tâm hôn ho.
Giờ đây họ mới có dịp làm quen nhau, kể cho nhau nghe đêm vượt biên phải trải qua bao nhiêu đoạn đường lo sợ, núp Sau những lùm cây sậy và bị muỗi chích mấy chục mũi, cách nào đã dành dụm tiền đi, vượt biên mấy lần, biết được mấy thuyền đi êm xuôi. Những mẩu chuyện lý thú như để quên đi cảm giác mênh mông chơi vơi giữa biển cả. Đám căn me (những người biết được có thuyền vượt biên đã canh giờ giấc leo lên đi không trả một đồng tiền vé nào) không dám nhất cử nhất động vì sợ bị làm khó dễ. Mải mê trò chuyện cho tới khi ánh nắng của những ngày cuối tháng Chín mất hẳn. Mọi người chuẩn bị một ít gì để ăn tối bỗng bầu trời như có điều gì lạ. Hồi chiều, sau khi hoa tiêu bẻ lệch hướng tránh những tàu đánh cá Thái Lan vì sợ hải tặc (hải tặc Thái Lan có tiếng trên tuyến vượt biên), thời tiết như đã có thay đổi. Đến lúc này, bầu trời xám xịt, gió mạnh thổi tới, Sóng gió nổi dậy. Con thuyền bắt đầu nhào lộn với sóng gió, tự do cuốn theo những khối nước khổng lồ của đợt sóng. Nước biển bắn lên văng tứ tung làm mọi người ướt như chuột lột. Trong hầm của con thuyền dài mười hai mét, ngang VỞn vẹn ba mét, sáu mươi lăm người chen chúc nhau la hét om sòm. Những khuôn mặt tái xanh sợ hãi. Mọi người trấn an nhau bằng những lời chan chứa nét lạc quan, những câu kinh nguyện Thượng Đế. Sau mấy canh trường nhào lộn với sóng gió, thiên nhiên đã nhường phần thắng cho con thuyền. Ai nấy lại hoàn hồn với một hơi thở dài. Hú vía!
Ngày thứ năm của cuộc hành trình gói ghém ít câu hỏi với hoa tiêu về thời gian và khoảng cách khi nào thuyền sẽ cặp bến. Họ được giải đáp thích đáng, trễ là hai ngày nữa, còn không là sáng mai thôi. Sinh hoạt vẫn bình thường, họ kể cho nhau nghe những câu chuyện bỏ dở chen thêm vài mẩu chuyện gẫu giết thì giờ. Mọi người mong đợi.
Hai ngày. Sau...
Bảy ngày trôi qua. Ngày thứ tám bắt đầu với những thắc mắc tại sao chưa thấy bến bờ, tại sao kể từ ngày tránh tàu đánh cá Thái Lan cho đến hôm nay không gặp mảy may con thuyền hay tàu lớn nào. Đại durong, bầu trời, và con thuyền của họ. Chẳng lẽ hoa tiêu chấm sai tọa độ? Hoa tiêu thoái thác với những lý do không vững. Đầu óc họ nhen nhúm ý nghi ngờ. Hoa tiêu vớt vát: “Bà con yên tâm. Thôi, đổ thêm dầu vào. Thế nào chiều nay cũng có dấu hiệu.” Can dầu cuối cùng đã trút gọn vào bình chứa.
Chiều đã đến, họ chưa thấy một dấu hiệu gì là đảo hay đất liền. Chẳng những vậy mà còn có cảm giác đang ở một nơi nào đó thật xa xôi bờ bến. Đêm đến rồi gần sáng. Tiếng máy thuyền nổ đều ru họ vào giấc ngủ chập chờn miên man bỗng sục sặc vài tiếng rồi tắt hẳn.
“Hêt dâu.” Tiêng nói của một người nào đó. Hết dầu!? Mọi người chồm dậy ngỡ ngàng. Hêt dâu? Hêt dâu
Như sét đánh bên tai. Làm sao thuyền chạy được? Làm sao vô bờ được?
Nỗi kinh hoàng hiện rõ trên những nét mặt ngơ ngác như chưa muốn tin những gì mình vừa nghe. Làm sao có thể như vậy được? Anh hoa tiêu có điều gì muốn nói không?
- Bà con hãy bình tĩnh. Tuy hết dầu nhưng chắc chúng ta đã gần một hòn đảo hay đất liền nào đó. Thế nào cũng có tàu thuyền phát hiện ra chúng ta. Hơn nữa, chúng ta còn có nhau.
Vậy là dầu hết thật. Lạy Chúa, lạy Phật, xin cứu chúng con qua khỏi cơn hoạn nạn.
Ngày vắng vẻ, đêm cô quạnh.
Chín ngày qua tai họ đã quen với tiếng máy nổ đều đều. Nay âm thanh đó không còn nữa, họ cảm thấy thiếu một gì đó, thấy lẻ loi hơn. Ngày đầu, họ thả neo và trông đợi tàu thuyền nào đó biết được sẽ tới cứu. Ngày thứ hai qua đi, rồi ngày thứ ba, họ không thấy một vật gì ngoài bầu trời và biển đã quyết định kéo neo để cho con thuyền trôi. Nó trôi đi đâu? Biển cả bao la, đâu cũng là đâu. Lương thực, nước uống chẳng còn bao nhiêu. Họ lo mạng sống sẽ ra sao. Họ trôi qua từng ngày dài, đêm dài. Ngày sóng gió mệt lả. Ngày nắng chói chang. Không một tia hy vọng. Đêm xuống làm cho không gian bao la thêm tĩnh mịch. Đêm chơi vơi. Đêm vô bờ bến. Một ngày đi qua là một vết tẩy lên bức tranh hy vọng của họ. Một ngày mới là một thách đố tâm trí trước mắt họ. Thế là hết. Những ước vọng, những bức tranh đẹp nơi chân trời mới đang dần nhạt đi. Họ miên man về quá khứ. Chỉ hai tuần trước thôi, họ chưa thấy những gì đang xảy ra. Hôm nay, họ tự đặt câu hỏi với chính họ, giá phải trả cho miền đất hứa là gì đây? Tại sao xui xẻo đến vậy? Tại sao nhiều thuyền đã vượt qua êm xuôi? Họ quay cuồng với những thăc măc và Sô mạng của họ.
Đã hơn một tuần con thuyền chở họ cứ trôi dạt đâu đó. Thỉnh thoảng, xa xa trong đêm tối hay giữa ban ngày, họ thấy được những tàu buôn thật lớn. Ba chữ “SOS” và ánh lửa heo hắt trên biển cả không đủ lớn để diễn tả hoàn cảnh hay những con tàu kia cứ dửng dưng coi như đó là bữa tiệc vui không muốn tham dự. Nhiều người cố ý mừng thầm rằng đó là một trong những con tàu đi vớt người vượt biển. Nhưng nó không giảm tốc độ, cứ tiến thẳng. Tia hy vọng chưa kịp lóe lên đã bị dập tắt. Một cú điện thoại hay dăm ba chục lít dầu thôi, biết đâu họ đã vô bờ bến sau một vài ngày và đã cứu được biết bao nhiêu mạng sống. Họ tiếc rằng, sao con tàu buôn đó không bố thí cho họ chừng ấy phúc đức. Tới hôm nay họ đã mệt mỏi lắm rồi. Lửa củi cũng đã hết.
Cuộc hành trình đang trôi nổi vào khoảng ngày thứ hai mươi, hai mươi mốt. Lương thực hết, nước uống hết. Vài cá nhân mang theo được một ít lương thực cũng chỉ kéo dài lâu hơn vài ngày. Vì là con người nên đã có những ẩu đả xảy vì miếng ăn. Có những chuyện thật vô duyên
nhur: - Ông ơi cho con miếng sữa để đắp vào chỗ chảy máu. - Thằng X đánh làm đầu con tét ra nè. - Bà ơi cho con miếng khoai. Chân tay con không cử động được nữa mè.
Chẳng ai còn lại một miếng ăn hoặc một giọt nước nào. Ba, bốn ngày qua họ không có gì để ăn uống. Họ cảm thấy khổ sở, vô dụng. Làn nước biển trong xanh như ngọc nhưng không uống được làm cho họ thêm điên dại. Họ đãi miệng nhau bằng những món ăn họ đã được thưởng thức ở nhà hàng này, nhà hàng kia khi còn ở Saigon, Đà Lạt... Sơn hào hải vị cứ thế được bày ra đầy dẫy trong khối óc của họ. Họ ăn uống thật ngon, thư giãn gân thịt để những hương vị đậm đà đó thẩm dần vào trí tưởng tượng của họ. Họ ăn bằng tâm trí. Tâm trí no đầy còn bao tử trống rỗng. Xót xa.
- Ba ơi, con đói quá.
- Mẹ ơi, con khát quá.
Tiếng khóc xé trời giữa biển cả vì đói khát của những em bé chưa đầy một tuổi đời vang vọng, âm thầm xé nát tâm can của những người làm cha mẹ. Bao giòng nước mắt khô héo vàng vọt không e thẹn não nề rơi trước cảnh đời đói khát của trẻ thơ. Tiếng khóc, tiếng than nhỏ dần, chỉ nghe tiếng rên rỉ.
Ngày thứ hai mươi bảy.
Sáng trời trong, biển yên. Ông mặt trời đang dần trồi lên cuối chân biển. Những cơ thể rời rạc và tâm trí mơ màng đang giằng co với đêm bao la mộng mị bỗng nghe một giọng thất thanh thét lên phá vỡ sự yên lặng, tĩnh mịch:
- Thằng A chết rồi. Thằng A chết rồi bà con ơi!
Mọi người giật tỉnh. Họ xôn xao vây quanh một thanh niên khoảng hai mươi lăm hoặc hai mươi sáu tuổi nằm dài trên bong thuyền. Tấm thân anh ta đã gầy guộc thêm vào nhiều ngày không ăn uống nhìn như bộ xương ngụy thêm lớp da mỏng. Qua mọi cách có thể được họ thử xem thanh niên đã chết thật chưa. Sau một lúc, họ không còn nghi ngờ gì nữa. Một cái chết. Tâm trí họ không giấu nổi sự hoang mang dù biết trước sẽ có ngày này. Tuy thế, họ không ngờ cái chết đầu tiên lại sớm như vậy. Chỉ không ăn uống ba, bốn ngày chưa đến nỗi phải chết. Họ nghĩ có lẽ anh ta không chịu được sóng gió nên bấy lâu nay không ăn uống được nên không còn sức chịu đựng. Lời kinh cầu cô đơn vang lên giữa đại dương bao la. Họ cầu xin Thượng Đế cho linh hồn anh ta được về nơi an nghỉ tốt lành. Ngày dài lê thê trôi vào đêm đen hơi hám cõi âm tới ám ảnh tâm trí họ. Họ nghe được những âm thanh văng vẳng từ bên kia thế giới trồi lên là đà trên mặt biển. Những tiếng kêu vang thống thiết trầm bổng bi thương bao bọc lấy con thuyền. Có người kể rằng nghe được tiếng hát bi ai ở một nơi xa xôi nào đó. Những giấc ngủ chập chờn trôi vào mê man.
Đêm man rợ đi qua. Xác anh A còn năm đó. Họ bàn tán nên làm Sao Với xác anh ta. Giữ lại thêm vài ngày nữa hay nên thủy táng anh.
Một lúc sau, họ thì thầm thêm vài lời kinh cầu. Kính cẩn long trọng nói với anh ta mấy lời từ biệt rồi quyết định thủy táng anh ta. Họ không muốn giữ lâu vì sợ tinh thần bị khủng hoảng khi cái chết cứ lù lù nằm đó. Biển khá êm nên xác anh không trôi vội cứ như muốn bám theo con thuyền, rồi từ từ xa dần. Mọi người nhìn theo, nghĩ tới số phận của họ. Từ ngày đó, họ sợ đêm tối hơn.
Vài ngày nữa trôi qua, cơn đói dữ dội hơn, cơn khát càng làm cho họ hoang mang. Một số người gỡ gỗ thuyền ra gặm như con Sóc gặm hạt trái cây như để an ủi bao tử xấu số đang “thất nghiệp”. Làn nước trong xanh thật quyến rũ, đã nhiều lần họ định nhắm mắt uống thử nhưng lại thôi. Bữa nọ, một người thấy được trong làn nước có một vật gi màu xám lúc hiện lúc ẩn. Mãi một lúc sau, anh ta phát hiện ra một đàn cá con bám theo hông thuyền mà bơi như để tránh sóng. Thế là họ nghĩ cách Vớt cá. Mảnh lưới được cắt ra làm thành những vợt nhỏ. Họ đồng ý, vớt được bao nhiêu chia đồng đều cho mọi người. Cũng có vài người tìm cách giữ lấy cho riêng họ. Những con cá nhỏ chừng nửa ngón tay út bị họ bỏ tõm vào miệng nhai một cách ngon lành. Một anh thanh niên vừa cầm được con cá mừng quá hối hả đưa ngay lên miệng. Chú cá vừa bị bắt vẫy vẫy tuột ngay vào họng anh ta, đuôi vào trước nên khi tuột tới cổ họng hai cái vây đâm dính vào đó. Anh ta đau đớn, trợn mắt, hai tay quờ quạng cầu cứu. Một thanh niên đứng bên cạnh nhanh tay bóp miệng anh bị hóc, thọc ngón tay vào cổ tìm cách móc con cá ra hoặc dy nó vào. Sau một phút, chú cá tuột hẳn vào ruột, miệng anh ta lép chép máu.
Nhiều người không dám ăn hết nguyên phần một lần, dù chỉ có hai hoặc ba con. Họ cắn một nửa, nhai từ từ đến khi miếng cá nhừ nhuyễn mới cẩn thận nuốt. Có một gia đình dành dụm được vài chục con. Người cha xâu thành một dây cột lại như xâu chuỗi và cẩn thận đeo vào cổ. Một số người hùn cá lại khoảng vài chục con, kiếm lon đổ nước biển vào để muối. Họ chia giờ giấc canh giữ lon quí giá ấy, cũng có lúc nghe phong phanh có ai đó hớp đi một miếng. Đàn cá luẩn quẩn thêm được mấy ngày rồi bỏ đi. Đã có nhiều người nghĩ rằng anh A đã dắt đàn cá tới cho họ. Họ cầu mưa để có nước uống nhưng mưa vẫn không rơi. Những giọt sương đêm lấm tấm dính trên mảnh kính của ca bin thuyền
được họ lè lưỡi ra liếm mỗi buổi Sáng. Tạt nước biển vào mặt, nhảy xuống tắm là cách tốt hay không họ vẫn làm. Đến hôm nay, đã có nhiều người không chịu nổi sự quyến rũ của làn nước biển, họ đã cố nhắm mắt nuốt một hớp. Sau một lúc, họ quằn quại trong cơn xót xé ruột của chất muối. Miệng họ thở ra những hơi thở thối nghẽn mũi.
- Bà con ơi, ai có nước cho con tôi một hớp tôi xin biêu nhân hai chỉ đây.
- Ong Trời ơi, xin cho mưa Xuông, tôi nguyện sẽ đi tu suôt đời khi tới được bên bờ.
Đó là những lời cầu xin của những người làm cha làm mẹ. Ngày thứ ba mươi ba.
Bờ bến vẫn mịt mù. Thuyền tàu đâu chẳng thấy. Sáng, một người mẹ khóc nức nở. Đứa con gái chưa đầy một tuổi duy nhất của cô đã chết. Nó chết từ lúc nào không ai hay biết. Thân thể đứa bé được quấn gọn trong mảnh vải đơn sơ khiêm tốn như cuộc đời bạc phước ngắn ngủi của em. Hai tay ôm chặt xác con, giòng nước mắt rã rời buông, miệng lẩm bẩm những gì nghe không rõ, từ ngày đó trở về sau, cô thường tự nói chuyện với chính mình như người không hồn. Sau vài lời kinh nguyện, mấy lời chia tay, em bé nằm trong lòng đại dương bao la. Bây giờ họ mong, họ ước, họ trông đợi phép lạ xảy ra đưa con thuyền giạt vào một nơi nào đó. Một bờ biển hoang hay một đảo hoang cũng có thể cứu họ. Họ sẽ bắt đầu lại cuộc đời ở đó. Nhưng chuyện họ mong ước không xảy đến. Những ngày dài cứ trôi qua. Hoa tiêu là người kế tiếp về với biển và liên tục những cái chết âm thầm cô đơn. Chết ngồi, chết nằm, chết dựa vào mạn thuyền.
- Than ôi! Thằng con thứ hai của tôi cũng chết rồi. - Bà con ơi, tôi lại mất thêm đứa cháu nữa. - Trời ơi! Anh, em tôi cũng chết rồi.
Có những dấu hiệu họ nghĩ đang ở một nơi nào đó rất gần bến bờ.
Bữa nọ, có con chim gì như chim én bay lượn quanh một lúc rồi đậu trên mũi thuyền. Chim lạc bầy chăng, nó có vẻ mệt lắm. Nhiều người dè dặt bảo nhau không nên đụng đến nó vì sợ điềm xui xẻo sẽ tới. Nhưng con chim không tránh khỏi số mạng, nó bị vặt lông và bị ăn tươi nuốt sống. Một lần kia, họ thấy được vài khúc gỗ bám đầy những con hào nhỏ như con ốc gạo, họ vớt lên và gỡ chúng ra bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Lại có lúc họ thấy lờ mờ xa xa như những rặng núi. Đã có lần có người bám theo phao bơi về hướng đó nhưng một lúc sau anh ta bỏ Cuộc.
Một ngày nọ, sau khi cơn đói khát đã giết đi một số người, trời lại
trở gió. Sóng gió vẫn thường xảy ra nhưng hình như có điều gì lạ hơn những lần trước. Bầu trời chuyển mình nhanh như một tay phù thủy cao phép biến bông hoa thành con rắn độc. Từng lớp sóng cuồn cuộn đưa con thuyền lên trời cao rồi lại dập vùi nó xuống vực sâu. Những ngọn sóng lớn đi qua như muốn nuốt gọn nó vào lòng khối nước khổng lồ. Ít người tin rằng con thuyền sẽ vượt qua được cơn thịnh nộ của biển cả. Trong khi mọi người đang nhừ tử, trời mưa đổ xuống. Mưa rơi!
Mura xuống như liều thuốc tiên tiêm vô cơ thể mọi người. Họ bật dậy ngửa cổ hứng những giọt nước mát ngọt ngào của thiên nhiên. Từng nhóm ba, bốn người kiếm mảnh ny lông chụm lại cố bám vào mạn thuyền để hứng nước. Họ vừa hứng, vừa uống. Từng giọt nước mưa trong mát như ngọc thấm vào mọi người làm sống lại một phần cơ thể của họ. Họ đang loay hoay với những lọ, bình, bỗng một ngọn sóng lớn đập tới. Kế đó là một tiếng “bùm”. Những cặp mắt lảo đảo đưa nhìn. Họ thấy một thiếu niên đang cưỡi trên ngọn sóng lớn. Nhiều người chưa kịp phản ứng, một thoáng qua, một khoảnh khắc ngắn, họ thấy một bóng người phóng theo thiếu niên kia. Một ngọn sóng nữa ập tới, hai bóng người đã xa con thuyền một khoảng cách không thể cứu vãn được. Nửa phút trôi qua, xa xa thấp thoáng hai cánh tay chới với giơ lên như muốn nói lời từ giã. Những cặp mắt bất lực trước hoàn cảnh đau thương nhìn theo ngậm ngùi. Từ vài ngày đầu của chuyến vượt biên, hai thiếu niên gặp nhau trò chuyện và mến nhau từ đó. Hai người đã kết nghĩa anh em và thề sống chết có nhau. Trong khoảnh khắc không tính toán lợi hại trước tai nạn, phản ứng của anh ta là lao xuống cứu người em kết nghĩa.
Anh ta không có thì giờ để thấy được hậu quả hay đã coi thường sức mạnh của ngọn sóng. Dù sao đi nữa, anh đã ra đi và để lại trong lòng mọi người niềm xúc động thiết tha và sự kính nể về nghĩa cử của anh. Nghĩa cử đó là niềm khích lệ và cũng là cú đánh đau vào lương tâm cuộc sống hỗn độn của cộng đồng đó.
Ngày thứ bốn mươi bốn.
Chiều đã xế tà. Xa xa cuối chân biển thấp thoáng những cụm mây đan thành dãy núi. Mặt biển lao chao sóng. Con thuyền đã trôi tới đâu? Những lời kinh cầu rời rạc vẫn thường phá vỡ sự chơi vơi và cô đơn giữa biển trời, tuy lòng tin và sự phó thác nơi đấng siêu nhiên như đã phai mờ dần trong tâm họ. Đã có nhiều người không phân biệt được tiếng động của vật thể hay tiếng động của ảo giác gây ra. Họ nghi ngờ thính giác và thị giác của họ. Bóng đêm đã buông xuống, thân xác họ vẫn cứ giằng co với cõi âm. Bỗng có tiếng động cơ nổ đâu đó lớn dần. Khi chăng còn ai nghi ngờ ở tai mắt mình nữa, một tàu đánh cá xuất hiện đã dừng hẳn với khoảng cách mười lăm, hai chục mét. Đèn pha chiếu sáng. Bên kia tàu bóng người nhấp nhô đang thì thầm với nhau những gì đó. Con thuyền xấu số cứ lao nhao như người sắp đuối chụp được phao. Họ quì gối lạy lục xin cầu cứu. Những lời van xin thống thiết não nề hiện rõ và tuôn ra từ miệng họ. Họ vứt ngay xuống biển một xác chết đã tắt thở tự lúc nào mà chưa kịp đọc vài lời kinh siêu thoát trước sự chứng kiến của con tàu nọ. Sau một lúc lao nhao với bối cảnh đó, thủy thủ tàu kia quăng sang ít gói lương thực, quơ tay như muốn diễn tả một tín hiệu gì đó, rồi rú ga quay mũi phóng đi. Sau đít tàu in chữ “Taiwan” thật rõ. Một ít mì ăn liền, dăm bảy lon nước ngọt và chừng một chục trái cam. Bốn mươi mấy người chia nhau chừng ấy lương thực. Tia hy vọng mong manh sẽ được cứu thoát hé chiếu lên trong tâm trí mọi người tuy nhiều người tiếc rằng tại sao con tàu kia không cứu họ. Con thuyền tiếp tục lênh đênh.
Buôi sáng băt đâu ngày thứ bôn mươi chín.
Bốn mươi chín ngày qua, con thuyền không để lại một dấu vết trên con đường nó đã đi qua ngoài những xác chết được thả xuống biển không biết có kịp thời giờ để chìm vào lòng đại dương, hay đã là mồi ngon cho cá biển. Chơi vơi, mê man, chập chờn, họ luôn tự nhủ chớ ngủ say vì có thể sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa. Tuy mấy ngày qua họ đã có một ít đồ ăn nhưng không đủ, thêm vài người nữa ra đi vào lòng biển cả. Họ đã mệt mỏi mong đợi bến bờ như họ đang mệt mỏi mong chờ cái chêt.
“Con tàu kia trở lại!” Giọng thất thanh của một người nào đó.
Quả thật vậy! Con tàu đánh cá họ đã gặp cách đây chừng một tuần trở lại. Ánh mặt trời đã chiếu sáng sau đêm tối. Con tàu kia trở lại là ánh đèn chiếu lên nỗi tuyệt vọng của chuỗi ngày sống trong nỗi kinh hoàng ghê sợ. Họ cho mấy can dầu, thêm ít lương thực như lần trước Và thêm vài gói thuốc lá, lửa và một vài chai rượu gì đó. Họ ra dấu hiệu chỉ cho phương hướng rồi rú ga quay mũi bỏ đi. Con tàu đã chạy một khoảng xa, những vái lạy và cảm tạ mới ngưng dần.
- Có dầu rồi! Có dầu rồi! Không lẽ chúng ta đang sống lại từ cõi chết?
Họ bắt đầu quay. Một lần, hai lần, nhiều lần. Máy không nổ. Nguyên ngày hôm đó, họ cố gắng lau chùi và sửa máy. Một ngày nữa lại qua đi.
Ánh mặt trời nóng dần, họ tiếp tục việc bỏ dở từ tối hôm qua. Xác một thiếu niên vừa tắt thở đang nằm kia. Có nhóm người đang xì xào chuyện gì đó. Một “cuộc họp” bất chợt được điều động. Mặt trời đã đứng bóng. Nét mặt nhiều người đượm vẻ đăm chiêu. Nhát rựa đầu tiên cắm vào xác thiếu niên kia. Kế tiếp là tiếng cắt chặt vang động khắp con thuyền. Họ múc nước biển, gỡ ván thuyền và nấu. Thịt chín kèm theo ngụm rượu, họ nâng chén Xin tha lỗi cho nhau. Làn khói thuốc mơ hồ mỏng manh như ẩn hiện cưu mang nặng trĩu sự dã man.
Quay, quay, và quay. Mồi lửa vào. “Bịch, bịch, bịch...”
Mọi người ngưng lời cầu nguyện nhìn nhau trừng trừng không nói được lời nào. Miệng lem lém những vết máu thâm, họ ôm nhau hôn hít như điên. Cơ thể họ như được Thượng Đế thổi hơi sống vào. Tiếng la hét nổi lên. Những cử chỉ và hành động của họ lúc đó là của những người điên. Họ trấn tĩnh nhau. Vài phút trôi qua, con thuyền nhồi mũi lên và phóng về hướng con tàu đánh cá đã chỉ dẫn. Tiếng máy nổ như tiếng kêu gọi đàn cá khổng lồ tới. Chúng xếp thành hai hàng và phóng trước mũi thuyền như dẫn dắt nó tới bờ bến. Có phải một con cá là một linh hồn đã ra đi của con thuyền?
Họ trông mong dấu hiệu bến bờ.
Trời đã tối. Họ nấu tiếp “phần ăn” còn lại. Con thuyền mò mẫm tìm bến bờ trong đêm tối. Nó miệt mài, không tìm được bến bờ. Đến mười giờ, xa xa hiện ra những chấm Sáng. Tọa độ được chỉnh và trực chỉ hướng đó. Sáng dần, sáng dần. Khi chẳng ai phủ nhận đó là giàn khoan, tiếng khóc la của mọi người là lời diễn tả sự vui mừng đích thực nhất của họ lúc đó. Một số người đã được trực thăng đưa vào bệnh Viện cấp cứu ngay khi thuyền vừa được vớt. Hành trang của họ còn lại là những miếng “thịt”. Đêm đã qua. Họ cό chập chững Vịn thành lan can của giàn khoan ngó ra biển khơi. Mỗi người cho nhau một cái nhìn. Hình như tất cả đều có một cảm giác nợ nần những linh hồn đã ra đi trên biển cả. Bao bóng hồn quá vãng là đà trên mặt biển. Chúng tôi mang ơn họ nhiều lắm. Con tàu lớn đang kéo con thuyền bé con chợt dưng phóng nhanh. Con thuyền từ từ ngắc ngoải chìm vào lòng đại dương. Nét khổ ải kiên nhẫn miệt mài nay trở về với biển. Tuổi đời của nó chỉ vỏn vẹn một năm nhưng sứ mạng của nó đã hoàn thành. Xin cám ơn một vật vô tri. Chúng tôi vào đất liền và được Hội Hồng Thập Tự chăm sóc. Hơn một tháng sau mọi người mới tạm bình phục. Một tháng sau nữa, mọi người có mặt trên đảo Pulau Bidong, Malaysia. Chân họ đang đứng trên mảnh đất tự do. Miền đất hứa thật sự đang chờ họ.
Kê từ đây, họ băt đâu cuộc Sông tị nạn.
(Tôi không muôn nêu rõ tên thật của những người tôi đã Viêt về họ. Nêu có ai cùng đi chung thuyên. Với tôi đọc được bài Viêt này, Xin hãy coi đây là cái nhìn của một thiếu niên mười lăm tuổi lúc bây giờ.)
-Trần Văn Hương