Lòng Nhân Ái
Chuyện kể như một nén hương chiêu niệm gởi đến linh hồn của gần nửa triệu đồng bào đã bỏ mình dưới đáy biển đông và trong rừng thẳm Campuchia, trên đường Vượt thoát tìm tự do.
Người viết xin thay mặt hai trăm sáu mươi hai thuyền nhân sống sót tri ân Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, vị thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của tuần dương hạm US ROBINSON 12 đã cứu sống chúng tôi đêm 12 tháng Mười Hai năm 1980 trên biển đông.
Vào một buổi tối đầu tháng Mười Hai năm 1980, gia đình chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn tròn giữa nhà trong một chung cư ở Saigon. Nét mặt mọi người lúc đó thật u buồn, hiện hữu nét trầm uất đọng lại từ bao ngày. Tôi nói cho các con biết quyết định vượt biên của tôi và đứa trai út duy nhất mười lăm tuổi mà tôi và mẹ chúng đã suy nghĩ, toan tính từ lâu. Chúng tôi bàn với nhau về hậu quả có thể xảy ra của chuyến đi.
Những giọt nước mắt bắt đầu ứa ra. Giọng nói của vợ tôi đứt quãng, nghẹn ngào. Tôi hỏi thằng út:
- Con bằng lòng đi với ba không?
Nó gật đầu cả quyết, nét ngây thơ biến hẳn, đưa tay gạt nhanh giọt nước mắt đang đọng. Tôi nói tiếp:
- Trên đường đi nêu ba chêt, con phải tiêp tục đi với mây người cùng nhóm của mình. Nêu con chêt, ba sẽ cùng chêt với con.
Đó là lời cuối cùng của cuộc họp mặt gia đình hiếm có, bi thảm như một lời trăn trối. Chúng tôi chỉ có ba đứa con, hai gái, một trai. Giây phút đó, đứa con gái lớn và chồng của nó ngồi gục đầu trên bàn, đứa con gái kế vòng tay trước ngực ngước mặt lên trần nhà bất động. Trời Saigon nóng bức, tôi nghe buốt cả lòng. Tôi bước ra hiên trong khi vợ tôi ôm thằng út. Tang thương đến thế là cùng. Trên cao hãy còn đôi vì sao sáng. Thuyền chưa tách bến mà những gian truân nội tại đã bắt đâu.
Một tuần sau, chuyến đi xa thật Sự xảy ra. Tổ chức có xe đưa đón từ tụ điểm. Phải đi tới, đi lui nhiều lần mới thoát. Lần nào vợ con tôi cũng đưa chúng tôi đến nơi lúc trời chưa sáng, đứng núp đâu đó nhìn theo khóc thầm. Trong số người đưa tiễn đứng bất động trên đường nhìn xe lăn bánh có một người cha trung niên tiễn hai đứa con ở tuổi vị thành niên. Lần nào ông cũng cỡi Vespa chạy theo xe ra quá Phú Lâm, đến khi xe khuất dạng mới ngừng lại ngơ ngác đứng nhìn. Ôi, hành trình biển đông! Đây mới chỉ là những bước đi trên bộ mà sao đã đẫm đầy nước mắt. Rồi đến một hôm, từ tám giờ sáng, xe đưa chúng tôi suôn sẻ qua bắc, qua phà, vượt những dặm dài trên quê mẹ. Ở mỗi chặng dừng chân, số người đi “hôi” cũng không ít. Trời tối dần, trăng lên thật sáng. Xe lướt qua những cánh đồng mênh mông, vắng lặng. Đây là những lúc kẻ đi “hôi” bị đạp xuống đường. Xe băng băng để lại đằng sau tiếng la hét, chửi rủa nhỏ dần. Đồng ruộng miền nam cò bay thẳng cánh. Nghĩ đến quê hương bỏ lại, nghĩ đến vợ con, tôi ôm chặt thằng út Vào lòng, thương quá đi thôi.
Xe bỗng nhiên dừng lại giữa đồng cạnh một xe tải bít bùng. Cánh cửa nhỏ ngụy trang bên hông xe tải mở ra, họ đẩy chúng tôi chui vào như bầy gia súc vào chuồng. Cửa đóng lại, xe chạy đi. Trong xe tối đen như mực. Sàn xe và đám người lổn ngổn như bầy thú. Xe tải lớn chạy trên đường ruộng hẹp, lồi lõm, hất chúng tôi như những quả banh. Những đứa trẻ mới đáng thương làm sao! Xe chạy đến quá khuya, họ đưa chúng tôi xuống một ghe chài khá lớn. Từ bờ sông bò xuống ghe y như đang đột kích vào đất địch. Ngồi trong ghe tối như bưng. Biết là trong ghe có đông người nhưng nhìn không rõ mặt. Mệt quá chúng tôi thiếp đi. Sáng ra nhìn quanh trong ghe, số người đi quá đông, già trẻ ước chừng trên ba trăm người như là đi “bán chính thức”. Sau này biết ra là họ mua bãi, mua bến. Chúng tôi là đợt chót được tiếp nhận. Đây là bến nước Cần Thơ, ghe sẽ đi trên sông này đưa chúng tôi xuống Cà Mau để lên tàu ra biển. Ghe đi chầm chậm trên sông. Nắng nung lửa trên đầu. Ghe thường chui qua các cây vắt ngang, sợ lộ họ dùng bạt che kín chúng tôi lại. Một số đông bị ngộp thở, nhất là trẻ nít. May là một ngày trên sông rồi cũng qua nhanh.
Chiều lại trời mát, mọi người có vẻ hồi sinh. Họ cho ăn trưa và tối. Khẩu phần là tô cơm với chút mắm dưa. Tôi và anh Th, tình nguyện chia phần ăn cho mọi người. Được biết anh Th, trước đây du học Mỹ, có bằng BS. Anh vượt biên với vợ và đứa con trai độc nhất chín tuổi. Cùng đi có người chị và ba con nhỏ, hai cháu gọi chị bằng cô ở tuổi vị thành niên, con của người đàn ông cỡi Vespa nói ở trên. Ngoài số thuyền nhân trên ba trăm người, trong ghe còn có vài ba người mặc sắc phục công an, bộ đội có võ trang đi qua đi lại nhằm gây cảm giác sợ hãi để dễ bề uy hiếp. Tôi linh cảm có gì đó không ổn trong tổ chức. Đưa người đi vượt biên lúc đó là một thực tế đầy bẫy rập. Họ chỉ cần thu đủ vàng rồi đẩy con thuyền ra biển, sống chết mặc bay. Tôi và nhiều người đã nhận ra điều đó nhưng đã trễ rồi, đành phó mặc cho số mạng. Cầu xin một may mắn tình cờ. Mặt trời đang xuống thấp. Ghe đi trong hoàng hôn đổ ra cửa biển. Hai bên bờ sông lúc ấy vắng lặng, những tấm bạt được cuộn lại. Bầu trời thật sâu với cả một vòm sao. Trăng sáng nhàn nhạt. Giờ ra khơi sắp điểm. Tôi nắm chặt tay con trong một tâm trạng lo âu, trí óc chai cứng. Th. và tôi nhìn nhau thầm khuyến khích và chúc lành.
Khoảng hai giờ sáng, ghe ngừng, cặp vào một ghe khác nhỏ hơn. Họ nói đó là tàu đi biển. Tên chỉ huy lên cò súng, ra lệnh bỏ tất cả hành lý tại chỗ kể cả giày dép đang mang, xếp hàng một, lần lượt sang tàu. Tàu dài khoảng mười bốn mét, rộng bốn mét. Họ ghép thêm một căn gác lửng để chứa cho được nhiều người. Họ bắt chúng tôi ngồi xổm sát vào nhau. Một lớp trên gác, một lớp trên sàn tàu. Họ đẩy ba trăm người ra biển trên con tàu mong manh đó, không lương khô, không nước uống. Trên tàu có một số thanh niên đi theo phân làm ba tốp chia nhau án ngữ lối ra mũi tàu, lối ra buồng lái và vuông cửa thoát hơi trên mui tàu. Chúng tôi thật sự đã bị nhốt kín trong khoang tàu. Nhìn ra bên ngoài, chiếc ghe chài lớn gấp bốn lần chiếc ghe vượt biên đèn điện sáng choang đang quay mũi vào bờ. Thuyền chúng tôi nổ máy ra khơi bắt đầu chuyến hải hành mà biên giới sanh tử mong manh như tơ tóc. Đất mũi lùi xa dần, những gì thân thiết nhất đã bỏ lại sau lưng. Tàu đi với tốc độ hai mươi dặm giờ. Cửa biển rộng thênh thang, trời nước mênh mông, tiếng máy tàu nổ nghe nhỏ mà vang thật xa. Cả tàu im lặng như nín thở. Tôi chợt bắt gặp cảm giác của một đêm khuya khoắt năm năm về trước, tôi cùng cả ngàn sĩ quan bạn ngồi trên những chiếc Molotova bít bùng có bộ đội ghìm súng canh chừng khi rời trường Nguyễn Bá Tòng, nơi tập trung, lên Trảng Lớn cải tạo! Tiếng máy nổ trên biển, trong rừng đồng vọng trong đêm nghe thật giống nhau, rờn rợn như đi vào cõi chết.
Tàu đi vài giờ bị mắc cạn. Trai tráng nhảy xuống đẩy rồi đi tiếp. Bỗng “rầm” một tiếng. Căn gác lửng chứa cả trăm người bị sập làm bị thương một số và đè chết hai em bé. Máu đã chảy. Nhiều tiếng la thất thanh. Khủng khiếp quá. Tai nạn, chết chóc thật sự đã đổ ập lên đầu chúng tôi. Hoàn cảnh bắt mọi người phải xử trí nhanh. Không dừng lại để than khóc. Phải vượt sóng giành sự sống. Những tấm ván từ căn gác được dựng vào hai bên hông tàu thành hình chữ V như hai sườn núi giải quyết được một số chỗ ngồi nhưng lại gây khó thở cho số người ngồi bên dưới sàn tàu. Số phận chúng tôi đã bị kẻ cướp an bài. Phải ngồi yên tại chỗ, nếu xê dịch tạo hỗn loạn tàu sẽ chìm xuống biển sâu. Nỗi hốt hoảng lắng xuống. Con tàu dập dềnh đi với tốc độ lười biếng, mỏi mệt ngược với sự nôn nóng của mọi người. “Đi thế này bao giờ mới tới hải phận quốc tế?” Người ta nhìn nhau chán nản. Đã gần tới trưa, từ khi đi chưa có chút gì lót lòng, nhiều người khát nước lả ra.
Bỗng đàng xa có tàu đi tới. Tưởng là tàu ngoại quốc, nhiều người vẫy tay kêu cứu. Tàu lạ phăng phăng chạy về hướng chúng tôi. Hy vọng được cứu tắt ngắm khi một loạt đại liên nổ giòn thị uy. Tàu đảo một vòng quanh tàu chúng tôi rồi quăng dây kéo giữ lại. Mọi người kêu lên sửng sốt. Đó là tàu tuần duyên của Việt Cộng. Tháp buồng lái Sơn lá cờ đỏ sao Vàng thật lớn, đỉnh tháp đặt một khẩu đại liên. Có khoảng bảy, tám quân nhân sắc phục võ trang. Dưới vành nón cối, vẻ mặt họ lạnh lùng. Một vài người nhanh trí nhảy qua tàu họ thương lượng. Trong lúc đó, mọi giấy tờ mang theo chúng tôi đều vo tròn ném xuống biển. Thủ tục “đầu tiên” đã được đặt ra. Hai nón lật ngửa được chuyền tay nhau. Vàng bạc, đôla góp vào đem nạp. Chưa đủ! Một vòng thứ hai được mang sang. Hai người đại diện đã quay về. Tất cả chúng tôi hồi hộp đợi. Thình lình con tàu đó nổ máy chạy xa bỏ chúng tôi lại trong nỗi mừng vừa trải qua cơn ác mộng. Niềm hy vọng lúc ra đi vẫn còn.
Tàu lại tiếp tục nhảy sóng. Tôi thở phào siết chặt con vào lòng, mừng thấy con còn khỏe. Mặt trời xuống sâu ở chân trời. Đêm đến thật nhanh. Hoàng hôn trên biển buồn nát ruột. Ngọn đèn điện treo giữa khoang tàu tỏa ánh sáng Vàng Vọt. Con người trở thành những bóng đen chập chờn. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh con tàu ma đang đi trên vùng biển chết. Hy Vọng sống sót thật mong manh. Đói khát, ngột, lả, lo sợ, hốt hoảng, tinh thần suy sụp. Đã có người mất trí, điên loạn. Những lời nói Vô nghĩa thốt ra. Các bà níu nhau đòi nợ, đòi góp hụi, đòi chồng, đòi con. Người ta giẫm lên nhau. Có người cố lách hàng rào người để ra khỏi khoang thuyền nhưng bị đạp trở lại. Khoang tàu bấy giờ là một địa ngục. Dưới sâu của sàn tàu chắc đã có người chết ngộp hoặc đè lên nhau mà chết. Có những thanh niên lực lưỡng lách mình ra ngoài rồi nhảy xuống biển tự nhiên như đi tắm. Chua xót bi thảm quá! Họ đánh mất sinh mạng trong cơn mê sảng.
Hai mươi hai năm đã trôi qua, nhớ lại mà ngậm ngùi muốn khóc. Con trai tôi cũng bị khủng hoảng tinh thần. Nó vùng đứng lên, vung tay nói thao thao bất tuyệt. Tôi hoảng hốt điếng người ôm lấy con, rồi van xin những thanh niên cho tôi đem con ra ngoài năm phút cho nó tỉnh. Họ cho, tôi kéo con ra, một chân ôm cột neo thuyền, tay và chân kia quấn chặt lấy con sợ nó nhảy xuống biển. Chiếc lon Guigoz ở đâu lăn tới, tôi chộp lấy múc nước biển tưới lên người nó. Tôi nói cho nó nghe về mẹ và các chị nó ở nhà “đang cầu nguyện cho con và ba, gắng lên nghe con.”
Từ đó đến sáng, tôi không biết gì thêm về cảnh điên loạn trong khoang tàu. Mặt trời đã lên, bình minh trên biển rạng rỡ và êm ả. Những thanh niên không còn án ngữ khoang tàu, họ khiêng các xác chết thả nhẹ xuống biển. Trong lúc đó, một thanh niên tên D. từ khoang tàu bước ra, mỉm cười, vươn vai, rồi nhảy tòm xuống biển. Hoảng quá, chúng tôi chỉ kịp ném theo D. mấy can nhựa. Sát chỗ tôi ngồi có năm xác chết, không biết họ đưa ra từ lúc nào. Ước lượng số người chết đã gần bốn mươi. Một số nữa còn đang thoi thóp. Tàu đi không gặp hải tặc, thời tiết tốt, chỉ vì điều kiện sống trên tàu quá tồi tệ, chở quá đông, chỉ một ngày trên biển mà số người chết nhiều đến như vậy. Tàu bắt đầu rộng và thoáng. Hải phận quốc tế có nhiều tàu đi lại. Chúng tôi vẫy gọi mà chẳng ai buồn nghe. Lúc hai giờ chiều có chiếc máy bay từ đâu bay lượn nhiều vòng trên không rồi bay đi. Có nhiều hy vọng được cứu.
Vài giờ sau, từ xa trực chỉ một tàu đánh cá Thái Lan tiến sát vào tàu chúng tôi rồi quăng dây kéo. Phong cách của họ rất hải tặc, đóng khố, mình trần, tay cầm búa nhuring rất thân thiện, đến cứu hơn là đến cướp. Trong lúc đó, anh D. cũng được một tàu khác vớt ở đâu đó, được một sà lan chở đến nhập bọn. Thật là một chuyện lạ!
Tàu chúng tôi ép Sát tàu đánh cá Thái Lan, mọi người nhảy sang tìm thức ăn, nước uống, nói cười rôm rả. Tàu đùa Sóng rào rạt. Nước biển và sóng sáng lên dưới ánh đèn. Toàn cảnh sinh hoạt lạ thường. Vừa chập choạng tối, tàu chúng tôi được kéo đến gần một chiến hạm Mỹ đèn giăng sáng choang. Thủy thủ đứng trên tàu nhìn xuống rất đông. “Sống rồi. Được cứu rồi!” Mọi người hét lên mừng rỡ. (Sau này tôi được biết là, phi cơ sau khi phát hiện chúng tôi đã điện về Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok. Nơi đây đã thuê tàu Thái kéo, cùng lúc điện cho tuần dương hạm đón chúng tôi.)
Một chiếc thang sắt được thả xuống. Hai thủy thủ Mỹ đứng ở cuối thang dìu chúng tôi từng người lên chiến hạm. Họ đưa chúng tôi xuống sàn tàu bên dưới, trút bỏ quần áo, chỉ giữ lại tiền của và nữ trang. Tất cả được tắm rửa và mỗi người một cái mền rồi lên bong tàu tập họp. Tuần dương hạm US ROBINSON 12 quá lớn. Hai trăm sáu mươi hai người chiếm một diện tích lớn đủ rộng để nằm. Mỗi người được phát một phần ăn như đang picnic! Thoát chết, trước mắt là cuộc sống tự do, chúng tôi vừa đổi mạng sống để có được. Làm sao mà tả hết nỗi vui trong lòng. Bộ chỉ huy tàu cần vài người lên may giúp áo quần cho hai em bé vì người trong gia đình cháu đã chết hết. Đó là hai cháu nhỏ nhất trong nhóm chín người của anh Th. Tôi hết sức bàng hoàng, chợt nghĩ đến người đàn ông lái xe Vespa, làm sao ông sống được khi biết tin buồn nay.
Nghe nói ngay đêm tàu chúng tôi được vớt, đài VOA đã loan tin. Mãi tháng sau gia đình bên nhà mới biết ai còn, ai mất. Gần bốn mươi người đã nằm lại dưới biển sâu, hai trăm sáu mươi hai người được cứu. Họ đang ở trên bong tàu, Súng Sính trong những bộ áo quần quá cỡ của thủy thủ trên tàu cho mặc tạm, trông thật ngộ nghĩnh. Về khuya, tất cả nằm la liệt. Tôi cũng thiếp đi. Khi tỉnh dậy nhìn quanh, tôi lặng người xúc động. Vây quanh chỗ chúng tôi nằm là những sĩ quan và thủy thủ. Họ đang ngồi canh thức, nhìn chúng tôi vẻ mặt đăm chiêu, xót thương, pha lẫn chút kinh ngạc. Họ sợ chúng tôi mê sảng rồi nhảy xuống biển. Có tiếng la ú ớ, có kẻ đạp tung mền... là có anh hải quân chạy đến vực dậy, cho uống nước rồi kéo chăn đắp lại. Cảnh tượng đó không có gì để kể cho dài, đơn sơ mà đầy ắp tình người, xúc động làm rơi nước mắt.
Sáng hôm sau, Vị thuyền trurởng cho biết là tất cả sẽ được gởi ở trại tị nạn Leamsing, Thái Lan bốn mươi ngày. O trai Galang, Indonesia ba tháng. Rồi đi định cư ở Mỹ. Vì tàu đang thực tập hành quân, chúng tôi được ở trên tàu bốn ngày, sống thật là thoải mái. Đêm thứ hai sau đêm được vớt, cả tàu làm lễ thủy táng cho ba phụ nữ bị thương quá nặng không cứu được. Mọi người trên tàu đứng nghiêm tiễn ba thuyền nhân đi vào lòng biển lạnh trong tiếng kèn buồn não ruột.
Từ đó, hai trăm sáu mươi hai người chúng tôi trở thành “Boat 262 P”. Con tàu bất hạnh. Tên mãi mãi nằm sâu trong ký ức tôi, chập chờn những nét mặt u buồn lãng đãng như sương khói. Chiều ngày thứ tư, chúng tôi bùi ngùi từ giã con tàu cứu mạng, từ biệt những tấm lòng vàng. Đi chân đất đặt chân lên đất liền, chúng tôi bắt đầu cuộc sống của người tị nạn thất αuόc, Ở trong các trại tị nạn đúng theo lịch trình đã qui định. Đời sống ở các trại tị nạn lúc đó thật bình thường. Được Cao Üy Tị Nạn nuôi ăn ngày hai buổi, lo học Anh văn, làm vệ sinh trại, giữ gìn sức khỏe. Ngày 27 tháng Tư năm 1981, tất cả được định cư ở nhiều nước. Bố con tôi và một số nữa được định cư ở Mỹ.
Giờ đây sau hai mươi hai năm ngồi ghi lại chuyến hải hành tang tóc, tôi nhớ đến người bạn đồng thuyền năm nào vừa mới quen đã mất. Ôi! Sinh mạng con người sao mà tiêu tan dễ dàng quá. Tôi nghĩ đến gần nửa triệu đồng bào vượt biên đã chết bằng đủ cách, đủ nghiệp. Chết phơi xác trong rừng sâu, chết âm thầm trên đảo vắng. Chết khô, chết rữa. Chết đói, chết khát. Chết vì điên. Chết vì bịnh. Chết vì bọn hải tặc man rợ, chết vì bọn tham Vàng đẩy ngurời ra biển. Chết vì bị bắn để phi tang. Chết ngay trên cửa biển, trong lòng sông của đất nước mình. Và còn biết bao nhiêu cô gái đang bị bọn hải tặc nhốt trên hoang đảo, hoặc đang bị bọn buôn người đày ải. Thương quá! Đau đớn quá! Buồn nát ruột. Trên đường Vượt biên, không có cái chết nào yên lành dành cho ho.
Tôi lại nghĩ đến thân nhân của họ đang ở quê nhà. Người ra đi nếu có rủi ro chết, cũng đã xong. Nhưng thân nhân họ ở bên nhà đang nửa tỉnh, nửa điên. Họ là cha, mẹ, ông, bà, chồng, Vợ, anh, chị, em, con của những người đã thác oan. Họ là người đàn ông cỡi xe Vespa tiễn con đi mà đứt từng đoạn ruột. Họ là hai cháu bé năm tuổi và sáu tuổi còn sống sót trong nhóm chín người của anh Th. Hai cháu đã mất mẹ, mất em, mồ côi ngay trên biển, phải ở lại trên tàu Mỹ chờ kiếm người bảo trợ. Hai cháu đã bơ vơ, lạc loài trong nỗi mất mát tận cùng. Ở bên nhà, có ai đó thường ra đứng bên bờ Thái Bình Dương dõi mắt ra khơi.
Bút mực nào tả cho hết những niềm đau dằng dặc đó. Giá của tự do thật sự đã quí hơn sinh mạng. Trang thảm sử của người vượt biên đã đóng lại ánh sáng của tự do luôn lấp lánh hào quang. Những ai đã từng là thuyền nhân, bộ nhân, xin hãy làm người giữ lửa.
-Tâm Hồng
Nguồn: sưu tầm
Chuyện kể như một nén hương chiêu niệm gởi đến linh hồn của gần nửa triệu đồng bào đã bỏ mình dưới đáy biển đông và trong rừng thẳm Campuchia, trên đường Vượt thoát tìm tự do.
Người viết xin thay mặt hai trăm sáu mươi hai thuyền nhân sống sót tri ân Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, vị thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của tuần dương hạm US ROBINSON 12 đã cứu sống chúng tôi đêm 12 tháng Mười Hai năm 1980 trên biển đông.
Vào một buổi tối đầu tháng Mười Hai năm 1980, gia đình chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn tròn giữa nhà trong một chung cư ở Saigon. Nét mặt mọi người lúc đó thật u buồn, hiện hữu nét trầm uất đọng lại từ bao ngày. Tôi nói cho các con biết quyết định vượt biên của tôi và đứa trai út duy nhất mười lăm tuổi mà tôi và mẹ chúng đã suy nghĩ, toan tính từ lâu. Chúng tôi bàn với nhau về hậu quả có thể xảy ra của chuyến đi.
Những giọt nước mắt bắt đầu ứa ra. Giọng nói của vợ tôi đứt quãng, nghẹn ngào. Tôi hỏi thằng út:
- Con bằng lòng đi với ba không?
Nó gật đầu cả quyết, nét ngây thơ biến hẳn, đưa tay gạt nhanh giọt nước mắt đang đọng. Tôi nói tiếp:
- Trên đường đi nêu ba chêt, con phải tiêp tục đi với mây người cùng nhóm của mình. Nêu con chêt, ba sẽ cùng chêt với con.
Đó là lời cuối cùng của cuộc họp mặt gia đình hiếm có, bi thảm như một lời trăn trối. Chúng tôi chỉ có ba đứa con, hai gái, một trai. Giây phút đó, đứa con gái lớn và chồng của nó ngồi gục đầu trên bàn, đứa con gái kế vòng tay trước ngực ngước mặt lên trần nhà bất động. Trời Saigon nóng bức, tôi nghe buốt cả lòng. Tôi bước ra hiên trong khi vợ tôi ôm thằng út. Tang thương đến thế là cùng. Trên cao hãy còn đôi vì sao sáng. Thuyền chưa tách bến mà những gian truân nội tại đã bắt đâu.
Một tuần sau, chuyến đi xa thật Sự xảy ra. Tổ chức có xe đưa đón từ tụ điểm. Phải đi tới, đi lui nhiều lần mới thoát. Lần nào vợ con tôi cũng đưa chúng tôi đến nơi lúc trời chưa sáng, đứng núp đâu đó nhìn theo khóc thầm. Trong số người đưa tiễn đứng bất động trên đường nhìn xe lăn bánh có một người cha trung niên tiễn hai đứa con ở tuổi vị thành niên. Lần nào ông cũng cỡi Vespa chạy theo xe ra quá Phú Lâm, đến khi xe khuất dạng mới ngừng lại ngơ ngác đứng nhìn. Ôi, hành trình biển đông! Đây mới chỉ là những bước đi trên bộ mà sao đã đẫm đầy nước mắt. Rồi đến một hôm, từ tám giờ sáng, xe đưa chúng tôi suôn sẻ qua bắc, qua phà, vượt những dặm dài trên quê mẹ. Ở mỗi chặng dừng chân, số người đi “hôi” cũng không ít. Trời tối dần, trăng lên thật sáng. Xe lướt qua những cánh đồng mênh mông, vắng lặng. Đây là những lúc kẻ đi “hôi” bị đạp xuống đường. Xe băng băng để lại đằng sau tiếng la hét, chửi rủa nhỏ dần. Đồng ruộng miền nam cò bay thẳng cánh. Nghĩ đến quê hương bỏ lại, nghĩ đến vợ con, tôi ôm chặt thằng út Vào lòng, thương quá đi thôi.
Xe bỗng nhiên dừng lại giữa đồng cạnh một xe tải bít bùng. Cánh cửa nhỏ ngụy trang bên hông xe tải mở ra, họ đẩy chúng tôi chui vào như bầy gia súc vào chuồng. Cửa đóng lại, xe chạy đi. Trong xe tối đen như mực. Sàn xe và đám người lổn ngổn như bầy thú. Xe tải lớn chạy trên đường ruộng hẹp, lồi lõm, hất chúng tôi như những quả banh. Những đứa trẻ mới đáng thương làm sao! Xe chạy đến quá khuya, họ đưa chúng tôi xuống một ghe chài khá lớn. Từ bờ sông bò xuống ghe y như đang đột kích vào đất địch. Ngồi trong ghe tối như bưng. Biết là trong ghe có đông người nhưng nhìn không rõ mặt. Mệt quá chúng tôi thiếp đi. Sáng ra nhìn quanh trong ghe, số người đi quá đông, già trẻ ước chừng trên ba trăm người như là đi “bán chính thức”. Sau này biết ra là họ mua bãi, mua bến. Chúng tôi là đợt chót được tiếp nhận. Đây là bến nước Cần Thơ, ghe sẽ đi trên sông này đưa chúng tôi xuống Cà Mau để lên tàu ra biển. Ghe đi chầm chậm trên sông. Nắng nung lửa trên đầu. Ghe thường chui qua các cây vắt ngang, sợ lộ họ dùng bạt che kín chúng tôi lại. Một số đông bị ngộp thở, nhất là trẻ nít. May là một ngày trên sông rồi cũng qua nhanh.
Chiều lại trời mát, mọi người có vẻ hồi sinh. Họ cho ăn trưa và tối. Khẩu phần là tô cơm với chút mắm dưa. Tôi và anh Th, tình nguyện chia phần ăn cho mọi người. Được biết anh Th, trước đây du học Mỹ, có bằng BS. Anh vượt biên với vợ và đứa con trai độc nhất chín tuổi. Cùng đi có người chị và ba con nhỏ, hai cháu gọi chị bằng cô ở tuổi vị thành niên, con của người đàn ông cỡi Vespa nói ở trên. Ngoài số thuyền nhân trên ba trăm người, trong ghe còn có vài ba người mặc sắc phục công an, bộ đội có võ trang đi qua đi lại nhằm gây cảm giác sợ hãi để dễ bề uy hiếp. Tôi linh cảm có gì đó không ổn trong tổ chức. Đưa người đi vượt biên lúc đó là một thực tế đầy bẫy rập. Họ chỉ cần thu đủ vàng rồi đẩy con thuyền ra biển, sống chết mặc bay. Tôi và nhiều người đã nhận ra điều đó nhưng đã trễ rồi, đành phó mặc cho số mạng. Cầu xin một may mắn tình cờ. Mặt trời đang xuống thấp. Ghe đi trong hoàng hôn đổ ra cửa biển. Hai bên bờ sông lúc ấy vắng lặng, những tấm bạt được cuộn lại. Bầu trời thật sâu với cả một vòm sao. Trăng sáng nhàn nhạt. Giờ ra khơi sắp điểm. Tôi nắm chặt tay con trong một tâm trạng lo âu, trí óc chai cứng. Th. và tôi nhìn nhau thầm khuyến khích và chúc lành.
Khoảng hai giờ sáng, ghe ngừng, cặp vào một ghe khác nhỏ hơn. Họ nói đó là tàu đi biển. Tên chỉ huy lên cò súng, ra lệnh bỏ tất cả hành lý tại chỗ kể cả giày dép đang mang, xếp hàng một, lần lượt sang tàu. Tàu dài khoảng mười bốn mét, rộng bốn mét. Họ ghép thêm một căn gác lửng để chứa cho được nhiều người. Họ bắt chúng tôi ngồi xổm sát vào nhau. Một lớp trên gác, một lớp trên sàn tàu. Họ đẩy ba trăm người ra biển trên con tàu mong manh đó, không lương khô, không nước uống. Trên tàu có một số thanh niên đi theo phân làm ba tốp chia nhau án ngữ lối ra mũi tàu, lối ra buồng lái và vuông cửa thoát hơi trên mui tàu. Chúng tôi thật sự đã bị nhốt kín trong khoang tàu. Nhìn ra bên ngoài, chiếc ghe chài lớn gấp bốn lần chiếc ghe vượt biên đèn điện sáng choang đang quay mũi vào bờ. Thuyền chúng tôi nổ máy ra khơi bắt đầu chuyến hải hành mà biên giới sanh tử mong manh như tơ tóc. Đất mũi lùi xa dần, những gì thân thiết nhất đã bỏ lại sau lưng. Tàu đi với tốc độ hai mươi dặm giờ. Cửa biển rộng thênh thang, trời nước mênh mông, tiếng máy tàu nổ nghe nhỏ mà vang thật xa. Cả tàu im lặng như nín thở. Tôi chợt bắt gặp cảm giác của một đêm khuya khoắt năm năm về trước, tôi cùng cả ngàn sĩ quan bạn ngồi trên những chiếc Molotova bít bùng có bộ đội ghìm súng canh chừng khi rời trường Nguyễn Bá Tòng, nơi tập trung, lên Trảng Lớn cải tạo! Tiếng máy nổ trên biển, trong rừng đồng vọng trong đêm nghe thật giống nhau, rờn rợn như đi vào cõi chết.
Tàu đi vài giờ bị mắc cạn. Trai tráng nhảy xuống đẩy rồi đi tiếp. Bỗng “rầm” một tiếng. Căn gác lửng chứa cả trăm người bị sập làm bị thương một số và đè chết hai em bé. Máu đã chảy. Nhiều tiếng la thất thanh. Khủng khiếp quá. Tai nạn, chết chóc thật sự đã đổ ập lên đầu chúng tôi. Hoàn cảnh bắt mọi người phải xử trí nhanh. Không dừng lại để than khóc. Phải vượt sóng giành sự sống. Những tấm ván từ căn gác được dựng vào hai bên hông tàu thành hình chữ V như hai sườn núi giải quyết được một số chỗ ngồi nhưng lại gây khó thở cho số người ngồi bên dưới sàn tàu. Số phận chúng tôi đã bị kẻ cướp an bài. Phải ngồi yên tại chỗ, nếu xê dịch tạo hỗn loạn tàu sẽ chìm xuống biển sâu. Nỗi hốt hoảng lắng xuống. Con tàu dập dềnh đi với tốc độ lười biếng, mỏi mệt ngược với sự nôn nóng của mọi người. “Đi thế này bao giờ mới tới hải phận quốc tế?” Người ta nhìn nhau chán nản. Đã gần tới trưa, từ khi đi chưa có chút gì lót lòng, nhiều người khát nước lả ra.
Bỗng đàng xa có tàu đi tới. Tưởng là tàu ngoại quốc, nhiều người vẫy tay kêu cứu. Tàu lạ phăng phăng chạy về hướng chúng tôi. Hy vọng được cứu tắt ngắm khi một loạt đại liên nổ giòn thị uy. Tàu đảo một vòng quanh tàu chúng tôi rồi quăng dây kéo giữ lại. Mọi người kêu lên sửng sốt. Đó là tàu tuần duyên của Việt Cộng. Tháp buồng lái Sơn lá cờ đỏ sao Vàng thật lớn, đỉnh tháp đặt một khẩu đại liên. Có khoảng bảy, tám quân nhân sắc phục võ trang. Dưới vành nón cối, vẻ mặt họ lạnh lùng. Một vài người nhanh trí nhảy qua tàu họ thương lượng. Trong lúc đó, mọi giấy tờ mang theo chúng tôi đều vo tròn ném xuống biển. Thủ tục “đầu tiên” đã được đặt ra. Hai nón lật ngửa được chuyền tay nhau. Vàng bạc, đôla góp vào đem nạp. Chưa đủ! Một vòng thứ hai được mang sang. Hai người đại diện đã quay về. Tất cả chúng tôi hồi hộp đợi. Thình lình con tàu đó nổ máy chạy xa bỏ chúng tôi lại trong nỗi mừng vừa trải qua cơn ác mộng. Niềm hy vọng lúc ra đi vẫn còn.
Tàu lại tiếp tục nhảy sóng. Tôi thở phào siết chặt con vào lòng, mừng thấy con còn khỏe. Mặt trời xuống sâu ở chân trời. Đêm đến thật nhanh. Hoàng hôn trên biển buồn nát ruột. Ngọn đèn điện treo giữa khoang tàu tỏa ánh sáng Vàng Vọt. Con người trở thành những bóng đen chập chờn. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh con tàu ma đang đi trên vùng biển chết. Hy Vọng sống sót thật mong manh. Đói khát, ngột, lả, lo sợ, hốt hoảng, tinh thần suy sụp. Đã có người mất trí, điên loạn. Những lời nói Vô nghĩa thốt ra. Các bà níu nhau đòi nợ, đòi góp hụi, đòi chồng, đòi con. Người ta giẫm lên nhau. Có người cố lách hàng rào người để ra khỏi khoang thuyền nhưng bị đạp trở lại. Khoang tàu bấy giờ là một địa ngục. Dưới sâu của sàn tàu chắc đã có người chết ngộp hoặc đè lên nhau mà chết. Có những thanh niên lực lưỡng lách mình ra ngoài rồi nhảy xuống biển tự nhiên như đi tắm. Chua xót bi thảm quá! Họ đánh mất sinh mạng trong cơn mê sảng.
Hai mươi hai năm đã trôi qua, nhớ lại mà ngậm ngùi muốn khóc. Con trai tôi cũng bị khủng hoảng tinh thần. Nó vùng đứng lên, vung tay nói thao thao bất tuyệt. Tôi hoảng hốt điếng người ôm lấy con, rồi van xin những thanh niên cho tôi đem con ra ngoài năm phút cho nó tỉnh. Họ cho, tôi kéo con ra, một chân ôm cột neo thuyền, tay và chân kia quấn chặt lấy con sợ nó nhảy xuống biển. Chiếc lon Guigoz ở đâu lăn tới, tôi chộp lấy múc nước biển tưới lên người nó. Tôi nói cho nó nghe về mẹ và các chị nó ở nhà “đang cầu nguyện cho con và ba, gắng lên nghe con.”
Từ đó đến sáng, tôi không biết gì thêm về cảnh điên loạn trong khoang tàu. Mặt trời đã lên, bình minh trên biển rạng rỡ và êm ả. Những thanh niên không còn án ngữ khoang tàu, họ khiêng các xác chết thả nhẹ xuống biển. Trong lúc đó, một thanh niên tên D. từ khoang tàu bước ra, mỉm cười, vươn vai, rồi nhảy tòm xuống biển. Hoảng quá, chúng tôi chỉ kịp ném theo D. mấy can nhựa. Sát chỗ tôi ngồi có năm xác chết, không biết họ đưa ra từ lúc nào. Ước lượng số người chết đã gần bốn mươi. Một số nữa còn đang thoi thóp. Tàu đi không gặp hải tặc, thời tiết tốt, chỉ vì điều kiện sống trên tàu quá tồi tệ, chở quá đông, chỉ một ngày trên biển mà số người chết nhiều đến như vậy. Tàu bắt đầu rộng và thoáng. Hải phận quốc tế có nhiều tàu đi lại. Chúng tôi vẫy gọi mà chẳng ai buồn nghe. Lúc hai giờ chiều có chiếc máy bay từ đâu bay lượn nhiều vòng trên không rồi bay đi. Có nhiều hy vọng được cứu.
Vài giờ sau, từ xa trực chỉ một tàu đánh cá Thái Lan tiến sát vào tàu chúng tôi rồi quăng dây kéo. Phong cách của họ rất hải tặc, đóng khố, mình trần, tay cầm búa nhuring rất thân thiện, đến cứu hơn là đến cướp. Trong lúc đó, anh D. cũng được một tàu khác vớt ở đâu đó, được một sà lan chở đến nhập bọn. Thật là một chuyện lạ!
Tàu chúng tôi ép Sát tàu đánh cá Thái Lan, mọi người nhảy sang tìm thức ăn, nước uống, nói cười rôm rả. Tàu đùa Sóng rào rạt. Nước biển và sóng sáng lên dưới ánh đèn. Toàn cảnh sinh hoạt lạ thường. Vừa chập choạng tối, tàu chúng tôi được kéo đến gần một chiến hạm Mỹ đèn giăng sáng choang. Thủy thủ đứng trên tàu nhìn xuống rất đông. “Sống rồi. Được cứu rồi!” Mọi người hét lên mừng rỡ. (Sau này tôi được biết là, phi cơ sau khi phát hiện chúng tôi đã điện về Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok. Nơi đây đã thuê tàu Thái kéo, cùng lúc điện cho tuần dương hạm đón chúng tôi.)
Một chiếc thang sắt được thả xuống. Hai thủy thủ Mỹ đứng ở cuối thang dìu chúng tôi từng người lên chiến hạm. Họ đưa chúng tôi xuống sàn tàu bên dưới, trút bỏ quần áo, chỉ giữ lại tiền của và nữ trang. Tất cả được tắm rửa và mỗi người một cái mền rồi lên bong tàu tập họp. Tuần dương hạm US ROBINSON 12 quá lớn. Hai trăm sáu mươi hai người chiếm một diện tích lớn đủ rộng để nằm. Mỗi người được phát một phần ăn như đang picnic! Thoát chết, trước mắt là cuộc sống tự do, chúng tôi vừa đổi mạng sống để có được. Làm sao mà tả hết nỗi vui trong lòng. Bộ chỉ huy tàu cần vài người lên may giúp áo quần cho hai em bé vì người trong gia đình cháu đã chết hết. Đó là hai cháu nhỏ nhất trong nhóm chín người của anh Th. Tôi hết sức bàng hoàng, chợt nghĩ đến người đàn ông lái xe Vespa, làm sao ông sống được khi biết tin buồn nay.
Nghe nói ngay đêm tàu chúng tôi được vớt, đài VOA đã loan tin. Mãi tháng sau gia đình bên nhà mới biết ai còn, ai mất. Gần bốn mươi người đã nằm lại dưới biển sâu, hai trăm sáu mươi hai người được cứu. Họ đang ở trên bong tàu, Súng Sính trong những bộ áo quần quá cỡ của thủy thủ trên tàu cho mặc tạm, trông thật ngộ nghĩnh. Về khuya, tất cả nằm la liệt. Tôi cũng thiếp đi. Khi tỉnh dậy nhìn quanh, tôi lặng người xúc động. Vây quanh chỗ chúng tôi nằm là những sĩ quan và thủy thủ. Họ đang ngồi canh thức, nhìn chúng tôi vẻ mặt đăm chiêu, xót thương, pha lẫn chút kinh ngạc. Họ sợ chúng tôi mê sảng rồi nhảy xuống biển. Có tiếng la ú ớ, có kẻ đạp tung mền... là có anh hải quân chạy đến vực dậy, cho uống nước rồi kéo chăn đắp lại. Cảnh tượng đó không có gì để kể cho dài, đơn sơ mà đầy ắp tình người, xúc động làm rơi nước mắt.
Sáng hôm sau, Vị thuyền trurởng cho biết là tất cả sẽ được gởi ở trại tị nạn Leamsing, Thái Lan bốn mươi ngày. O trai Galang, Indonesia ba tháng. Rồi đi định cư ở Mỹ. Vì tàu đang thực tập hành quân, chúng tôi được ở trên tàu bốn ngày, sống thật là thoải mái. Đêm thứ hai sau đêm được vớt, cả tàu làm lễ thủy táng cho ba phụ nữ bị thương quá nặng không cứu được. Mọi người trên tàu đứng nghiêm tiễn ba thuyền nhân đi vào lòng biển lạnh trong tiếng kèn buồn não ruột.
Từ đó, hai trăm sáu mươi hai người chúng tôi trở thành “Boat 262 P”. Con tàu bất hạnh. Tên mãi mãi nằm sâu trong ký ức tôi, chập chờn những nét mặt u buồn lãng đãng như sương khói. Chiều ngày thứ tư, chúng tôi bùi ngùi từ giã con tàu cứu mạng, từ biệt những tấm lòng vàng. Đi chân đất đặt chân lên đất liền, chúng tôi bắt đầu cuộc sống của người tị nạn thất αuόc, Ở trong các trại tị nạn đúng theo lịch trình đã qui định. Đời sống ở các trại tị nạn lúc đó thật bình thường. Được Cao Üy Tị Nạn nuôi ăn ngày hai buổi, lo học Anh văn, làm vệ sinh trại, giữ gìn sức khỏe. Ngày 27 tháng Tư năm 1981, tất cả được định cư ở nhiều nước. Bố con tôi và một số nữa được định cư ở Mỹ.
Giờ đây sau hai mươi hai năm ngồi ghi lại chuyến hải hành tang tóc, tôi nhớ đến người bạn đồng thuyền năm nào vừa mới quen đã mất. Ôi! Sinh mạng con người sao mà tiêu tan dễ dàng quá. Tôi nghĩ đến gần nửa triệu đồng bào vượt biên đã chết bằng đủ cách, đủ nghiệp. Chết phơi xác trong rừng sâu, chết âm thầm trên đảo vắng. Chết khô, chết rữa. Chết đói, chết khát. Chết vì điên. Chết vì bịnh. Chết vì bọn hải tặc man rợ, chết vì bọn tham Vàng đẩy ngurời ra biển. Chết vì bị bắn để phi tang. Chết ngay trên cửa biển, trong lòng sông của đất nước mình. Và còn biết bao nhiêu cô gái đang bị bọn hải tặc nhốt trên hoang đảo, hoặc đang bị bọn buôn người đày ải. Thương quá! Đau đớn quá! Buồn nát ruột. Trên đường Vượt biên, không có cái chết nào yên lành dành cho ho.
Tôi lại nghĩ đến thân nhân của họ đang ở quê nhà. Người ra đi nếu có rủi ro chết, cũng đã xong. Nhưng thân nhân họ ở bên nhà đang nửa tỉnh, nửa điên. Họ là cha, mẹ, ông, bà, chồng, Vợ, anh, chị, em, con của những người đã thác oan. Họ là người đàn ông cỡi xe Vespa tiễn con đi mà đứt từng đoạn ruột. Họ là hai cháu bé năm tuổi và sáu tuổi còn sống sót trong nhóm chín người của anh Th. Hai cháu đã mất mẹ, mất em, mồ côi ngay trên biển, phải ở lại trên tàu Mỹ chờ kiếm người bảo trợ. Hai cháu đã bơ vơ, lạc loài trong nỗi mất mát tận cùng. Ở bên nhà, có ai đó thường ra đứng bên bờ Thái Bình Dương dõi mắt ra khơi.
Bút mực nào tả cho hết những niềm đau dằng dặc đó. Giá của tự do thật sự đã quí hơn sinh mạng. Trang thảm sử của người vượt biên đã đóng lại ánh sáng của tự do luôn lấp lánh hào quang. Những ai đã từng là thuyền nhân, bộ nhân, xin hãy làm người giữ lửa.
-Tâm Hồng
Nguồn: sưu tầm