Những Con Bò Sửa
Thuyền nhân, danh từ có một âm tự mỗi khi nghe đến chính quyền
cộng sản ở Hà Nội nghĩ đến danh từ đồng đô la. Thế nhưng cho đến bao giờ người ta mới biết hết được những bất hạnh đã xảy ra cho danh từ đó. Mặc dù danh từ thuyền nhân xuất hiện lần đầu tiên trên tờ báo New York Times bởi ngòi bút của ký giả Henry Kamm, nhưng ai cũng biết cuộc di tản bằng đường biển của người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu ngay từ khi các phương tiện bỏ chạy bằng đường bay không còn hữu hiệu nữa vì Sài Gòn đã bị cộng sản chiếm đóng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Một trong những nhóm người đầu tiên rời khỏi Việt Nam bằng đường biển vào ngày mất nước hôm đó là những người tị nạn cộng sản. Họ thả xuôi theo giòng nước sông Cửu Long ra đến của biển Cần Thơ, thành phố lớn nhất vùng châu thổ, trên hai mươi chiếc tàu nhỏ và một chiếc ghe cùng với hai mươi người Mỹ trong đó có cả Tổng Lãnh Sự McNamara. Cũng trong ngày hôm đó, bên chiến hạm Mỹ, Mobile, nằm ở cửa biển sông Sài Gòn, có đến hai mươi chiếc tàu đánh cá và một chiếc tàu chở hàng cũ chứa đầy người tị nạn. Những người tiền phong cho một đám đông khổng lồ ra đi với hành trang tuyệt vọng.
Ngày hôm sau, thứ Năm ngày 1 tháng Năm năm 1975, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, ở cách bờ biển ba mươi dặm, đã chứng kiến một đoàn hai mươi bảy chiếc tàu nhỏ ào ạt tắp đến từ đảo Phú Quốc, hòn đảo nhỏ cách Việt Nam hai mươi lăm dặm. Trên khoang những chiếc tàu có gần ba mươi ngàn người tị nạn trong số năm mười ngàn người Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa đã quyết định cho di tản đến đảo này từ hai ngày sau khi Thủ đô Sài Gòn bị thất thủ.
Rạng đông thứ Sáu ngày 2 tháng Năm năm 1975, trên tàu Blue Ridge, chiến hạm chỉ huy của Hạm Đội VII với bốn mươi sáu đơn vị, đã đưa hai mươi lăm ngàn người từ Sài Gòn đến, những người cuối cùng thoát khỏi thành phố bị bao vây. Trên thành tàu, những thủy thủ nghiêng mình nhìn xuống cảnh tượng huy hoàng mà họ không dám tin là sự thật. Mặt biển bao phủ hàng ngày hàng ngàn chiếc thuyền ghe đủ loại đủ cỡ, từ những chiếc xà lan già nua rỉ sét cho đến những chiếc thuyền đánh cá tí hon mỏng manh lố nhố đầy người trên khoang thuyền. Những ký giả được tàu Blue Ridge cứu đã ước lượng có đến khoảng một trăm ngàn người, đó là con số những thuyền nhân đầu tiên trong lịch sử người Việt Nam tị nạn cộng Sản.
. Từ đêm hôm đó cho đến rạng đông ngày 3 tháng Năm năm 1975, lần lượt các nước láng giềng gần ranh giới Việt Nam đã đón nhận những người đầu tiên bỏ trốn ra khỏi nước, hành lý mang theo là hai bàn tay trắng với trái tim rướm máu và tâm hồn tuyệt vọng. Sau này, trước những chuyến vượt biển thường xuyên của người thuyền nhân Việt Nam, những quốc gia này đã đành phải đẩy họ trở ra biển với tử thần vì không còn cách nào khác hơn. Một chiếc tàu tám ngàn tấn có tên là Đông Hải đã mở đầu con đường hải lộ bi thương này khi thả lên Singapore tám trăm hai mươi hai người tị nạn.
Trong khi đó, ngày 4 tháng Năm năm 1975, bốn ngàn năm trăm người khác trong đó có một ngàn thiếu nhi được lên tàu Clara Maersk, Đan Mạch. Họ đã may mắn vì chiếc thương thuyền chở họ tên là Trường Xuân đang trong tình trạng Sửa chữa đã rời khỏi Việt Nam ngay trước mắt cộng sản. Khi tàu Trường Xuân Säp bị chìm đã được chiếc tàu cứu tinh này từ phương Bắc đến gần và cứu vớt.
Tổng cộng có khoảng hai trăm ngàn người tị nạn Việt nam đã trốn ra khỏi nước trong những ngày đầu tiên của tháng Năm. Khoảng một trăm ba mươi ngàn người được Hoa Kỳ tiếp nhận sau khi qua trạm Phi Luật Tân hay đảo Guam, hòn đảo nằm ở vùng biển Thái Bình Dương nơi trước đây có căn cứ Hải Quân của Mỹ. Số người khác mang hai quốc tịch Việt Nam và Pháp nên đã được đi Pháp. Trong số những làn sóng người tị nạn đầu tiên có rất nhiều kỹ sư, chuyên viên đủ ngành và y Sĩ quan ngại sự thù ghét cộng sản dành cho giai cấp của họ.
Kể từ năm 1975 đến năm 1977, làn sóng thuyền nhân đã gia tăng đều đặn. Các trại tị nạn đã được Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (HCR) đều đặn mở ra tại Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân và Nam Dương. Hàng ngày đều có thêm người tị nạn mới nhập trại. Các quốc gia tây phương đã rộng rãi chấp nhận một số đông người tị nạn đến định cư như Pháp, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, và Úc Đại Lợi (nhiều thời gian hơn để quyết định). Ngoài ra, còn có thêm một số quốc gia u châu ở bên ngoài bức màn sắt.
Cho đến đầu năm 1976, cộng sản Việt Nam càng thêm cứng rắn và sắt máu với người dân. Những lời hứa hẹn “hòa hợp hòa giải dân tộc” đã vĩnh viễn bay biến. Các trại tập trung cải tạo đầy ắp người dân. Dân chúng miền nam bị công an cộng sản theo sát như hình với bóng. Mấy chục ngàn người dân thành phố bị đày ải đến các vùng khô cằn sỏi đá hay rừng thiêng nước độc mà cộng sản Việt Nam che đậy bằng danh từ hoa mỹ là vùng kinh tế mới. Nơi đó, người dân bước vào kinh tế vô sản với kiếp sống đọa đày và khốn khổ. Trong khi đó, luật cải cách ruộng đất đã tước đoạt hết đất đai của nông dân. Do đó, người dân Việt Nam đã bất chấp tất cả mọi thử thách kể cả những khó khăn nguy hiểm ngày càng chồng chất, thậm chí có thể bị tù đày hay chết chóc vẫn cứ lén lút và chen chúc nhau từng đêm đi chôn dầu vượt biển và đùa giỡn với tử thần ở các bờ bãi.
Vào năm 1977 đã có hơn mười ngàn thuyền nhân, danh từ đã trở nên thông dụng, đến Thái Lan và Mã Lai. Các trại tị nạn đã mở rộng thêm và các xứ sở đầu tiên tạm dung họ đã bắt đầu khó chịu. Chỉ có hơn một nửa số đơn thỉnh nguyện di trú được các nước tây phương chấp thuận.
Từ cuối năm 1977 đến đầu năm 1978, tình trạng càng thê thảm hơn. Hơn tám mươi ngàn thuyền nhân đến bờ biển các nước miền đông và đông nam Á châu, có đến hơn bảy mươi ngàn người đổ xô vào Thái Lan. Đó là thời điểm tiếng đại bác nổ dữ dội ở vùng biên giới Việt-Hoa. “Đàn anh Trung cộng” đang vác gánh nặng ở Vùng biên giới phía nam Vì những cuộc giao tranh giữa quân Khmer Đỏ và bộ đội cộng sản Việt Nam. Biến cố này đã khiến cho ba trăm ngàn Hoa kiều bỏ trốn. Hoa kiều ở miền Bắc chạy bộ vượt biên giời sang Trung cộng. Hoa kiều ở miền Nam dùng đường biển chạy lấy mạng.
Cộng sản Hà Nội lên án Bắc Kinh muốn phá hoại tình trạng kinh tế Việt Nam khi chiếm mất số dân cư rất năng động kia, đa số đang nắm huyết mạch tiền tệ và thương mại thời đó. Con rối mạt hạng của đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khắc Viện, rống lên những điệp khúc rẻ tiền do các quan thầy ở Bắc Bộ Phủ đã soạn sẵn bài bản (Sud Vietnam au fil des années, 241. Eùditions en langues étrangères, Hanoi, 1984): “Các gián điệp Trung Hoa dưới sự điều động trực tiếp của tòa Đại Sứ Trung Hoa ở Hà Nội đã xúi giục Hoa kiều hồi hương “nơi đó nhà nước sẵn sàng đón rước họ để tham gia lao động tái thiết Đại Trung Quốc”. Họ nói là người Việt Nam sẽ tàn sát họ một khi tiếng đại bác đầu tiên phát nổ ở vùng biên giới Việt-Hoa.” Như thế, đối với các đảng viên cộng sản Việt Nam, nếu hàng trăm ngàn đồng hương của họ bỏ xứ trốn đi, luôn luôn là bởi sự xúi giục từ “mạng lưới ngầm” của những người nước ngoài đáng ghét.
Mặc dù bên ngoài che đậy như thế, nhưng trên thực tế, phỉ quyền cộng sản ở Hà Nội đã tìm ra hai mối lợi. Một, là cơ hội dứt bỏ một số dân chúng rất dễ trở nên nguy hiểm trong trường hợp chiến tranh vùng giới gây bất lợi. Hai, là nhét đầy túi tiền. Họ đã làm tiền người ra đi sau khi thăng tay bóc lột sạch sẽ. Ngày 24 tháng Ba năm 1978, cộng sản Việt Nam bắt đầu tung công an ra tấn công tài sản của “giới tư sản mại bản” ở Chợ Lớn, khu vực Hoa kiều tại Sài Gòn. Tất cả tài sản của cộng đồng Hoa kiều đều bị “quốc hữu hóa” đồng lúc với tư doanh. Bàn ghế, nhà cửa, nữ trang, quí thạch, đồ sứ đắt tiền, và đồ dùng các thứ đều trở thành “tài sản nhân dân”. Kho tàng của chiến tranh, mà cộng sản Hà Nội hy vọng, để bù trừ các hậu quả của việc bỏ trốn gây ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia. Không cần phải phí phạm một giây khắc suy nghĩ nào cũng có thể hiểu được rằng, sự việc đó đã đưa Việt Nam vào chỗ bế tắc sau này.
Bị khốn đốn trong tuyệt vọng, Hoa kiều đã bắt buộc phải đặt chân lên những con tàu. Người ta còn nhớ câu chuyện chiếc tàu hàng cũ kỹ tên Hồng Hải sắp bị chìm trong hải cảng Klong ở Mã Lai với hai ngàn năm trăm hành khách, đa số là người Việt gốc Hoa, đã bị khước từ không cho lên bờ. Thảm cảnh này là làm rúng động lương tâm thế giới và thúc đẩy xu hướng cấp cứu của tây phương. Một trong số đó là y Sĩ người Pháp, cựu đảng viên đã ly khai đảng cộng sản, đã tìm cách đền bù lỗi lầm vì đã hoạt động cho cộng sản bằng cách mua một chiếc tàu ra biển đông Vớt người tị nạn, mặc dù các “cựu đồng chí” của ông thấy động cơ đó không đúng chỗ.
Sự ra đi của những hành khách không ngày về đã được tổ chức trong bóng tối. Mỗi người đều phải mang nợ để đáp ứng yêu sách vô hạn định. Dù có phải hay không phải Hoa kiều đều có thể rời Việt Nam “bán chính thức. Cho dù Hoa kiều bị cưỡng bách hay tự ý ra đi đều muốn chạy thoát khỏi nanh vuốt của kẻ áp bức là cộng sản Việt Nam.
Để che đậy tội ác và lừa bịp thế giới, cộng sản Hà Nội lên tiếng xuyên tạc sự thật rằng, làm sao dám giả định là các thuyền nhân trốn lánh sự áp bức thường trực, và bọn này chỉ tuân theo mệnh lệnh Washington và muốn phá hoại nền kinh tế nước nhà bằng cách tước đoạt chất xám. Luận điệu này đã được chúng lập đi lập lại nhiều lần với báo chí phương tây. Chưa hết, mỗi ngày tên bác sĩ Việt cộng hành nghề con rối Nguyễn Khắc Viện đều kể lể trong bản thông tin của bọn phỉ quyền cộng sản và trên các tài liệu tuyên truyền của chúng dành cho “người nước ngoài” rằng, Hoa kỳ đã đề nghị cùng những người vượt biên là sẽ chở họ đi với giá từ khoảng hai ngàn đến ba ngàn đô la, đến tận các tàu Hải Quân Mỹ đậu ngoài khơi chờ đón. Những chuyên viên giỏi và trí thức không phải trả tiền. Hắn còn dám xác nhận rằng, “Giờ đây chúng tôi có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bước một ai phải bỏ xứ ra đi và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống.” Nếu một vài người bị “lầm lạc” bởi các “lực lượng phản động ở trong nước và ngoài nước” đó là vì “họ không có can đảm đi khai khẩn các vùng đất mới”. Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra thí dụ của một đồng nghiệp bác sĩ. Dưới chế độ cũ, ông bác sĩ này “đi xe ô tô và sống trong vi la có gắn máy lạnh” và trở thành “quản lý một bệnh viện công” làm sao có thể sống trong một “xã hội mới”, thích nghi với “xã hội cách mạng”? Về phần nhà nước, tuy rất tiếc khi thấy những người này ra đi nhưng không thể làm được gì khác hơn là cầu chúc họ được thượng lộ bình an.
Những bài diễn văn ngụy biện và xuyên tạc như thế thường xuất hiện dưới ngòi bút của các ký giả cộng sản, những người duy nhất vào thời điểm đó được ra vào Việt Nam, nơi đã đóng kín phía sau bức màn sắt đầy đe dọa từ tháng Năm 1975 như con nhím đang giương những cọng gai nhọn hoắc. Hai mươi năm sau, nó vẫn còn nằm trong cửa miệng của một vài tay bình luận tây phương. Như phóng viên của báo Pháp Đức, Arte (Le Grand Documentaire, ngày 11 tháng Hai năm 1995) đã chứng kiến cảnh đào thủy lợi bằng tay không của “những người dân can đảm của mười làng ra công hợp sức” và tìm được “thú vị của sự nỗ lực chung.” Giải thích lý do nhiều vạn người khác quyết định trốn khỏi nước Việt Nam cộng sản, hắn ta châm biếm rằng, họ không thể “có cảm giác xây dựng quê hương xứ sở như cha ông họ đã từng đánh giặc bằng Vũ khí trên tay.”
Chỉ có những con rối mới biết mặt thật của họ phía sau lớp Son
phấn Và chỉ có cộng Sản mới biết sự thật của họ phía sau bức màn Sät. Do đó, cựu Đại tá cộng sản Bùi Tín dĩ nhiên phải biết rõ Việt cộng hơn tên phóng viên tờ báo Arte. Ông Bùi Tín giải thích trong quyển sách *Vietnam, La face cachée du regime,” (147, Kergour, 1999) viết ít lâu Sau khi ông đến lưu Vong tại Paris. Việc hối lộ của Hoa kiều ra đi “bán chính thức” được Bộ Nội Vụ tổ chức. Được biết đó là “Kế Hoạch 2,” mục đích được giữ kín. Có cả một loạt những công tác cho phép các giới chức tổ chức những cuộc ra đi cho những người lưu vong sau khi “nhổ sạch lông” của họ một cách có phương pháp. Mỗi người phải giá vượt biên từ ba đến năm lượng Vàng (một lượng = 36 grams), có khi gấp đôi. Nhà cửa, xe, hoặc của cải để lại.
Khi đến chỗ xuống tàu, thường ở ngay tại thành phố như Cần Thơ, bên bờ Cửu Long, người ra đi phải chịu đựng sự bóc lột cuối cùng như bị tịch thu tự do các băng đảng tự cho là có quyền lục lọi lấy Vàng, nữ trang, hoặc đô la mà người tị nạn cất giấu được. Sau đó, xuống tàu với nỗi lo sợ chiếc tàu chở họ sẽ một phần hai cơ nguy bị hải tặc tấn công lấy nốt những mẩu vàng còn sót lại trên người trước khi đem họ ném xuống biển. Khi đã lên được tàu rồi, họ vẫn chưa được yên với tuần cảnh địa phương nếu tàu chưa ra đến hải phận quốc tế. Nếu muốn thoát khỏi không bị bắt lại, tốt hơn hết là đưa ra chút của cải đã được giấu vào chỗ kín nhất. Bằng không bị bắt lại tội danh là phản bội và bị “đế quốc Mỹ” mua chuộc. Tội này có thể ngồi tù từ mười hai cho đến hai mươi năm (sắc luật luôn có sẵn để tham khảo).
Những người chọn cách đi tị nạn bằng đường bộ xuyên qua lãnh thổ Lào hay Cam Bốt đến Thái Lan là bộ nhân (land people). Những cuộc hành trình Vượt biên tị nạn bằng đường bộ luôn gặp nguy hiểm, bị công an hay bộ đội hay cảnh vệ nhân dân đuổi bắt. Những người vượt biên nào “mượn được” theo với giá Quân Đội Nhân Dân ấn định chiếc xe vận tải quân sự chở quân nhu, được phép núp trong thùng lớn, cách được Sử dụng khá thường Xuyên, nhưng cũng có khá đông nạn nhân ngộp thở chết vì hơi xăng.
Những người may mắn hơn hết “có thể” kiếm được “giấy xuất cảnh chính thức” và vé máy bay đến tận Hoa kỳ nhờ vào kế hoạch do Liên Hiệp Οuόc tổ chức với sự thỏa thuận giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội vào năm 1979. Họ cũng bị hạch sách và tống tiền đơn xin xuất cảnh chính thức mới qua lọt, nhiều khi phải mất đến mười năm chờ đợi. Hoa kỳ cũng bị hạch sách đủ điều và phải trả tiền cho từng đầu người tị nạn để được phê chuẩn cho phép đi. Do đó, cộng sản Việt Nam đã phát minh ra được “những con bò sữa thuyền nhân”. Một nhà nghiên cứu ở Paris tên Bùi Xuân Quang, trong cuốn sách “La Troisième guerre d’Indochine 1975-1999” (207-590, L'Harrmattan, 2000), đã tính toán “mối giao dịch” này của cộng sản Việt Nam kéo dài ròng rã hai mươi năm kể từ 1975 đến 1995 mang lại cho ngân khố của nhà nước cộng sản Việt Nam khoảng hai mươi lăm tấn vàng. Trên thị trường tiền tệ tây phương đã xuất hiện những thỏi vàng mang dấu ấn của Việt Nam bồi hoàn những số nợ phỉ quyền cộng sản Việt Nam đã ký kết với cộng sản Nga và các xứ dân chủ nhân dân, cùng tiền mua vũ khí chiến tranh. Số vàng ấy lên đến trị giá khoảng 2.5 tỉ Mỹ kim, tính trong khoảng thời gian từ năm 1979 đến năm 1983.
Hiệp sống với nỗi ám ảnh là bỏ nước ra đi. Tôi còn nhớ tiếng nói của người thuyền nhân đã từng gặp trên bãi biển Songkla tại Thái Lan bên cạnh chiếc tàu bị hư của anh. Tôi đã được nghe anh kể lại câu chuyện thống khổ mà đến bây giờ bên tại tôi vẫn còn văng văng lời của anh.
Vào một đêm nọ ở Việt Nam, một tên cán bộ cộng sản Việt Nam đã nói khẽ vào tai anh: “Hai ngàn đô la hay bốn cây vàng.” Anh đồng ý với mối làm ăn. Nhưng khi đến chỗ hẹn, Hiệp nhận ra anh đã bị cướp. Thuyền chẳng thấy đâu, vàng bị mất. Đó là họa luôn rình rập và cũng là một trong những giá người muốn vượt biên tìm tự do phải trả. Làm sao để tránh khỏi bị lường gạt, cướp bóc, tố cáo và tìm ra đường dây tốt.
Tôi biết có một thuyền nhân đã không thành công trong việc đi tị nạn dù đã thử đến hai mươi bảy lần. Hiệp đi hụt ba lần. Sau đó, anh quyết định tự tổ chức chuyến vượt biên. Anh đã lén lút vá víu chiếc tàu đánh cá cũ. Từng đêm lo bào rồi lại trét và những đêm trắng sửa chữa máy móc. Cuối cùng ngày khởi hành đến. Chiếc tàu đánh cá cũ kỹ của anh mang theo tám mươi lăm người rời bãi xuôi giòng, trôi dọc theo những con kênh chạy dài ra biển.
Hiệp kể lại với vẻ mặt thống khổ: “Chúng tôi tám mươi lăm người trên tàu đã sung Sướng vì rời khỏi được Việt Nam. Bây giờ, ông hãy nhìn xem, ngày hôm nay, chúng tôi chỉ còn có hai người. Hai người sống sót duy nhất là Ngọc, con gái của chị tôi, và tôi.” Đầu ướt lạnh như con mèo chết đuối và thân thể đói khát gầy trơ xương sườn như một con chó hoang, cùng với đứa bé gái sáu tuổi có đôi mắt nai khờ.
Tôi đã khóc. Nước măt của kẻ thừa mứa tự do đã đô Xuông mặn ướt câu chuyện liều chết tìm tự do của anh. Anh đã kẹt lại trại Songkla cùng với Ngọc, sau khi thoát chết khỏi những bàn tay đẫm máu của bọn hải tặc Thái Lan đã giết chị anh cùng những người trên tàu sau khi chúng bắt gần hết phụ nữ.
Vào tháng Mười năm 1978, có hai mươi ngàn người tị nạn đặt chân lên bờ biển Mã Lai. Đến tháng Mười Hai, con số đã lên đến năm mươi ngàn. Cộng thêm năm ngàn người vượt biên bằng đường bộ với ước vọng đến được bến bờ tự do. Trong vòng bốn tháng, hòn đảo hoang Pulau Bidong, Phi Luật Tân, đã đón nhận hai mươi ngàn kẻ bị ruồng bỏ. Vào khoảng giữa năm 1979, có năm ngàn người tị nạn mới đến thêm vào số những người khốn khổ tại trại tị nan Hồng Kông. Trong khi đó, chín mươi ngàn năm trăm người đã đầy trại tị nạn Mã Lai. Những người bị cảnh sát địa phương từ chối đẩy ra biển đã trôi dạt đến Nam Dương, hoặc xa hơn nữa đến Triều Tiên, Nhật, có khi đến tận Úc. Hãy nhắm mắt và tưởng tượng cuộc hành trình liều chết tìm tự do của họ trên khoang tàu bé nhỏ mong manh.
Bất thình lình, một hồi chuông báo động nổi lên, hai nước Thái Lan và Mã Lai tuyên bố không nhận thêm thuyền nhân mới. Bị dồn vào đường cùng, Liên Hiệp Quốc phải triệu tập một hội nghị quốc tế tại Genève và thu hoạch được ba kết quả. Các nước ở vùng duyên hải bảo đảm là thuyền nhân không bị đẩy lui ra biển. Các quốc gia tiếp nhận thêm thuyền nhân gia tăng số lượng tái định cư bổ túc là một trăm ba mươi ngàn người. Quan trọng nhất là Hà Nội lo ngại bộ mặt bị bôi đen tối dần ở biển đông trước sự bất mãn của thế giới đã cho phép người dân ra đi chính thức hợp pháp “trong vòng trật tự” bằng phương tiện hàng không. Chương trình này Liên Hiệp Quốc goi là ra đi trong vòng trật tự, Orderly Departure Progam (ODP).
Kể từ giờ phút đó, nhịp độ người vượt biển đến các trại tị nạn thưa thớt một cách rõ rệt. Mức độ từ ba trăm ngàn người vào năm 1979 giảm xuống chỉ còn hai bốn ngàn năm trăm người vào năm 1984. Đến năm 1986 chỉ còn mười chín ngàn năm trăm người. Cũng vào năm đó, lần đầu tiên, các chuyến ra đi tị nạn bằng hàng không với giấy nhập cảnh nhiều hơn con số những người trôi dạt đến bằng đường biển. Kết quả của hội nghị thuyên nhân tại Genève đã thỏa mãn thây rõ, một giải pháp mới cho vân đê thuyên nhân mà Liên Hiệp Quôc nhăm vào.
Chỉ hai năm sau, tình hình lại đổi ngược và làm cho thế giới thất Vọng. Những người tị nạn đi tìm tự do lại trở ra biển. Con số tăng lên bốn mươi lăm ngàn người vào năm 1988 (hai mươi lăm ngàn người nhiều hơn hai năm trước đó). Bảy mươi mốt ngàn ba trăm người vào năm 1989. Cộng thêm vào khoảng mười bảy ngàn bộ nhân. Vấn đề không giải quyết được, các quốc gia ở vùng duyên hải bắt đầu nổi giận.
Tại trại tị nạn Hồng Kông mỗi ngày có ba mươi bốn ngàn thuyền nhân mới nhập trại. Chính quyền Hồng Kông đã quyết định đưa những người mới vào trại tạm giam. Thế là những cuộc nổi loạn và tử tự nổi lên do quyết định của chính quyền Hồng Kông.
Để đóng chặt cánh cửa ngăn chặn hẳn mạch chính làn sóng vượt biển tìm tự do không ngưng này, các quốc gia tiếp nhận di trú lại tập họp thêm một lần nữa và tìm ra biện pháp mới là Plan d’Action Global (PAG), chương trình Hành Động Toàn Cầu. Thuyền nhân nào đến một quốc gia lân cận trước ngày 14 tháng Ba năm 1989 được quyền xin cư trú, là người tị nạn chính trị có quyền được sống ở một nước tây phương khi được cấp visa nhập cảnh. Đối với những người lên bờ Sau ngày đó đều bị xếp loại tị nạn kinh tế. Hoặc phải chứng minh được sẽ bị xử tội, hoặc bị đe dọa nếu không sẽ bị cưỡng bách hồi hương, trừ phi quyết định tự quay về nước.
Quy chế tị nạn chính trị của Hiệp đã bị từ khước, không có cơ hội được nhận vào Hoa kỳ. Anh đã phân vân rất lâu trước khi chấp nhận hồi hương. Cũng như phần đông các người tị nạn khác, anh sợ bị tù khi trở về Việt Nam. Anh chưa bao giờ làm chính trị nhưng có người anh từng chiến đấu trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa và ông nội làm việc cho chính phủ bảo hộ. Hai vết đen đó trong lý lịch cá nhân có thể khiến anh phải trả giá rất đắt. Nhưng một lá thư từ Sài Gòn gởi đến trại tị nạn Phanat Nikhom, Thái Lan, đã trấn an anh phần nào. Một trong những người bạn vượt biên của anh đã tình nguyện về Việt Nam cho anh biết mọi chuyện khá tốt đẹp và khuyến khích anh cùng về.
Năm 1993, tôi gặp lại Hiệp ở quê hương anh và lại khóc lần nữa. Lần này, chúng tôi cùng khóc mừng khi thấy anh đã thoát nạn. Anh là một trong một trăm mười ngàn cựu thuyền nhân kể từ năm 1989 đã chọn hồi hương thay Vì tiếp tục chết dần chết mòn ở một trại tị nạn Á châu. Nhờ có sự giúp đỡ tài chánh của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc và Liên Minh u Châu, giờ đây anh đã trở thành chủ nhân của một xưởng pha chế nước mắm và một căn nhà nho nhỏ hai phòng gần Vũng Tàu, người Pháp gọi la Cap Saint Jacques, trên bờ biển miền nam ngày xưa anh đã bỏ ra đi tìm tự do không bao giờ có và tưởng rằng không bao giờ anh sẽ trở lại đây. Anh sống cùng góa phụ của một trong những người bạn đã mất trên biển khi đi tìm tự do, cùng người em gái và ba đứa con của bà. “Nhà của chúng tôi tuy nhỏ nhưng có thể chứa đủ thứ. Ở trên thuyền ít chỗ hơn.”
Trong cuộc vận động và thỏa thuận cùng Hà Nội, Liên Hiệp Οuόc đã cố gắng tạo điều kiện tốt cho những người cứng rắn giúp cho họ tự quyết định sắp xếp quay về. Họ chiếu những cuốn phim quay tại Việt Nam cho thấy cạnh những cựu thuyền nhân tình nguyện hồi hương “sống như những ông hoàng”. Các cán bộ cộng sản còn đến gặp họ để tâng bốc. Họ gáy lên những điệp khúc tuyên truyền là Việt Nam đã thay đổi và sống tự do, ai đói cứ ăn. Bọn phỉ quyền Hà Nội tự khen chúng.
Những con bò sữa thuyền nhân đã mang đến cho bọn phỉ quyền Hà Nội rất nhiều quyền lợi và vẫn tiếp tục cung cấp sữa dù ở tận bên kia bờ Thái Bình Dương. Những gói quà gởi về cho gia đình và không bao giờ ngưng gởi nuôi thân bằng quyến thuộc còn kẹt lại ở Việt Nam bắt đầu từ ngày đầu tiên đặt chân định cư trên một quốc gia tự do. Những đồng tiền mồ hôi nước mắt không bao giờ ngưng chuyển giúp đỡ người thân sống còn. Những chuyến về thăm thân bằng quyến thuộc. Ước tính vào năm 1999 có đến hai tỉ đô la hàng năm thuyền nhân đã mang lại cho phỉ quyền cộng sản, một phần ba ngân sách của nhà nước cộng sản Việt Nam.
Gân hai triệu người Việt Nam đã chọn đời sông lưu vong nơi xứ lạ quê hương thay vì làm nô lệ cho cộng sản. Hàng trăm ngàn người đã gục chêt trên đường trôn chạy nanh Vuôt cộng sản Việt Nam. Kẻ nào đã dám ăn nói ngược ngạo và tuyên truyền láo khoét rằng toàn thể nhân dân miền nam Việt Nam đoàn kết cùng “anh hùng giải phóng” vào năm 1975?
Tôi còn nghe anh nói run rẩy trong bộ bà ba ướt sũng nước biển, gia tài duy nhất còn sót lại trong đời anh. Giữa vùng Vịnh Thái Lan, tiếng máy tàu của Hiệp như văng văng tiếng kêu của những linh hồn lìa xác. Thức ăn và nước uống sắp cạn. Những người đàn bà quì trên khoang khấn nguyện trời đất. Phải chăng trời đất đã chấp thuận lời cầu nguyện của những thuyền nhân vừa thoát khỏi nanh vuốt cộng sản và đang giẫy chết giữa lòng đại dương.
Vào giữa trưa ngày thứ sáu, một chiếc thuyền lướt sóng chạy nhanh về phía họ. Rồi hai chiếc... Rồi ba chiếc... Thoát nạn chăng? Nhưng... than ôi! Đó là những chiếc thuyền hải tặc Thái Lan. Chúng cướp bóc trên tàu, giết chết những người đàn ông chống cự, bắt đi mười tám người đàn bà trẻ, rồi bỏ đi sau khi đâm thủng tàu. Những người cố bám vào thân tàu bị chúng dùng gậy đập chết. Khi trời sáng, chỉ còn hai người sống sót đang bám víu vào sự sống cuối cùng là chiếc thùng đựng nước bằng nhựa. Định mệnh của họ bập bềnh theo Sóng biển vô tình. Hai người đó là Hiệp và Ngọc, cô bé gái có đôi mắt của con nai bị thương vừa thoát lưỡi hái của tử thần. Tôi nhìn cô bé đầu nghiêng, mắt nai, tựa cằm trên bàn và đăm đăm nhìn tôi với ánh mắt để đời. Dường như tuổi thơ đã bỏ em mà đi. Cô bé chỉ còn lại khoảng trống rỗng của đời người vô định. Một chiếc bình hoa tuyệt mỹ đã rơi xuống thềm địa ngục và tan vỡ giữa trần gian.
Đó là lịch sử của những người chạy trốn nanh vuốt cộng sản mà đời gọi họ là thuyền nhân, cũng có những người mệnh danh họ là kẻ chết đuối cho tự do. Lịch sử của một dân tộc trong hai mươi năm trường đã bị tàn hại dưới nanh vuốt của một thứ chính trị đầy thù hận và kỳ thị của bất cứ một chế độ cộng Sản nào.
-Michel Tauria
Nguồn: sưu tầm
Thuyền nhân, danh từ có một âm tự mỗi khi nghe đến chính quyền
cộng sản ở Hà Nội nghĩ đến danh từ đồng đô la. Thế nhưng cho đến bao giờ người ta mới biết hết được những bất hạnh đã xảy ra cho danh từ đó. Mặc dù danh từ thuyền nhân xuất hiện lần đầu tiên trên tờ báo New York Times bởi ngòi bút của ký giả Henry Kamm, nhưng ai cũng biết cuộc di tản bằng đường biển của người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu ngay từ khi các phương tiện bỏ chạy bằng đường bay không còn hữu hiệu nữa vì Sài Gòn đã bị cộng sản chiếm đóng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Một trong những nhóm người đầu tiên rời khỏi Việt Nam bằng đường biển vào ngày mất nước hôm đó là những người tị nạn cộng sản. Họ thả xuôi theo giòng nước sông Cửu Long ra đến của biển Cần Thơ, thành phố lớn nhất vùng châu thổ, trên hai mươi chiếc tàu nhỏ và một chiếc ghe cùng với hai mươi người Mỹ trong đó có cả Tổng Lãnh Sự McNamara. Cũng trong ngày hôm đó, bên chiến hạm Mỹ, Mobile, nằm ở cửa biển sông Sài Gòn, có đến hai mươi chiếc tàu đánh cá và một chiếc tàu chở hàng cũ chứa đầy người tị nạn. Những người tiền phong cho một đám đông khổng lồ ra đi với hành trang tuyệt vọng.
Ngày hôm sau, thứ Năm ngày 1 tháng Năm năm 1975, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, ở cách bờ biển ba mươi dặm, đã chứng kiến một đoàn hai mươi bảy chiếc tàu nhỏ ào ạt tắp đến từ đảo Phú Quốc, hòn đảo nhỏ cách Việt Nam hai mươi lăm dặm. Trên khoang những chiếc tàu có gần ba mươi ngàn người tị nạn trong số năm mười ngàn người Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa đã quyết định cho di tản đến đảo này từ hai ngày sau khi Thủ đô Sài Gòn bị thất thủ.
Rạng đông thứ Sáu ngày 2 tháng Năm năm 1975, trên tàu Blue Ridge, chiến hạm chỉ huy của Hạm Đội VII với bốn mươi sáu đơn vị, đã đưa hai mươi lăm ngàn người từ Sài Gòn đến, những người cuối cùng thoát khỏi thành phố bị bao vây. Trên thành tàu, những thủy thủ nghiêng mình nhìn xuống cảnh tượng huy hoàng mà họ không dám tin là sự thật. Mặt biển bao phủ hàng ngày hàng ngàn chiếc thuyền ghe đủ loại đủ cỡ, từ những chiếc xà lan già nua rỉ sét cho đến những chiếc thuyền đánh cá tí hon mỏng manh lố nhố đầy người trên khoang thuyền. Những ký giả được tàu Blue Ridge cứu đã ước lượng có đến khoảng một trăm ngàn người, đó là con số những thuyền nhân đầu tiên trong lịch sử người Việt Nam tị nạn cộng Sản.
. Từ đêm hôm đó cho đến rạng đông ngày 3 tháng Năm năm 1975, lần lượt các nước láng giềng gần ranh giới Việt Nam đã đón nhận những người đầu tiên bỏ trốn ra khỏi nước, hành lý mang theo là hai bàn tay trắng với trái tim rướm máu và tâm hồn tuyệt vọng. Sau này, trước những chuyến vượt biển thường xuyên của người thuyền nhân Việt Nam, những quốc gia này đã đành phải đẩy họ trở ra biển với tử thần vì không còn cách nào khác hơn. Một chiếc tàu tám ngàn tấn có tên là Đông Hải đã mở đầu con đường hải lộ bi thương này khi thả lên Singapore tám trăm hai mươi hai người tị nạn.
Trong khi đó, ngày 4 tháng Năm năm 1975, bốn ngàn năm trăm người khác trong đó có một ngàn thiếu nhi được lên tàu Clara Maersk, Đan Mạch. Họ đã may mắn vì chiếc thương thuyền chở họ tên là Trường Xuân đang trong tình trạng Sửa chữa đã rời khỏi Việt Nam ngay trước mắt cộng sản. Khi tàu Trường Xuân Säp bị chìm đã được chiếc tàu cứu tinh này từ phương Bắc đến gần và cứu vớt.
Tổng cộng có khoảng hai trăm ngàn người tị nạn Việt nam đã trốn ra khỏi nước trong những ngày đầu tiên của tháng Năm. Khoảng một trăm ba mươi ngàn người được Hoa Kỳ tiếp nhận sau khi qua trạm Phi Luật Tân hay đảo Guam, hòn đảo nằm ở vùng biển Thái Bình Dương nơi trước đây có căn cứ Hải Quân của Mỹ. Số người khác mang hai quốc tịch Việt Nam và Pháp nên đã được đi Pháp. Trong số những làn sóng người tị nạn đầu tiên có rất nhiều kỹ sư, chuyên viên đủ ngành và y Sĩ quan ngại sự thù ghét cộng sản dành cho giai cấp của họ.
Kể từ năm 1975 đến năm 1977, làn sóng thuyền nhân đã gia tăng đều đặn. Các trại tị nạn đã được Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (HCR) đều đặn mở ra tại Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân và Nam Dương. Hàng ngày đều có thêm người tị nạn mới nhập trại. Các quốc gia tây phương đã rộng rãi chấp nhận một số đông người tị nạn đến định cư như Pháp, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, và Úc Đại Lợi (nhiều thời gian hơn để quyết định). Ngoài ra, còn có thêm một số quốc gia u châu ở bên ngoài bức màn sắt.
Cho đến đầu năm 1976, cộng sản Việt Nam càng thêm cứng rắn và sắt máu với người dân. Những lời hứa hẹn “hòa hợp hòa giải dân tộc” đã vĩnh viễn bay biến. Các trại tập trung cải tạo đầy ắp người dân. Dân chúng miền nam bị công an cộng sản theo sát như hình với bóng. Mấy chục ngàn người dân thành phố bị đày ải đến các vùng khô cằn sỏi đá hay rừng thiêng nước độc mà cộng sản Việt Nam che đậy bằng danh từ hoa mỹ là vùng kinh tế mới. Nơi đó, người dân bước vào kinh tế vô sản với kiếp sống đọa đày và khốn khổ. Trong khi đó, luật cải cách ruộng đất đã tước đoạt hết đất đai của nông dân. Do đó, người dân Việt Nam đã bất chấp tất cả mọi thử thách kể cả những khó khăn nguy hiểm ngày càng chồng chất, thậm chí có thể bị tù đày hay chết chóc vẫn cứ lén lút và chen chúc nhau từng đêm đi chôn dầu vượt biển và đùa giỡn với tử thần ở các bờ bãi.
Vào năm 1977 đã có hơn mười ngàn thuyền nhân, danh từ đã trở nên thông dụng, đến Thái Lan và Mã Lai. Các trại tị nạn đã mở rộng thêm và các xứ sở đầu tiên tạm dung họ đã bắt đầu khó chịu. Chỉ có hơn một nửa số đơn thỉnh nguyện di trú được các nước tây phương chấp thuận.
Từ cuối năm 1977 đến đầu năm 1978, tình trạng càng thê thảm hơn. Hơn tám mươi ngàn thuyền nhân đến bờ biển các nước miền đông và đông nam Á châu, có đến hơn bảy mươi ngàn người đổ xô vào Thái Lan. Đó là thời điểm tiếng đại bác nổ dữ dội ở vùng biên giới Việt-Hoa. “Đàn anh Trung cộng” đang vác gánh nặng ở Vùng biên giới phía nam Vì những cuộc giao tranh giữa quân Khmer Đỏ và bộ đội cộng sản Việt Nam. Biến cố này đã khiến cho ba trăm ngàn Hoa kiều bỏ trốn. Hoa kiều ở miền Bắc chạy bộ vượt biên giời sang Trung cộng. Hoa kiều ở miền Nam dùng đường biển chạy lấy mạng.
Cộng sản Hà Nội lên án Bắc Kinh muốn phá hoại tình trạng kinh tế Việt Nam khi chiếm mất số dân cư rất năng động kia, đa số đang nắm huyết mạch tiền tệ và thương mại thời đó. Con rối mạt hạng của đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khắc Viện, rống lên những điệp khúc rẻ tiền do các quan thầy ở Bắc Bộ Phủ đã soạn sẵn bài bản (Sud Vietnam au fil des années, 241. Eùditions en langues étrangères, Hanoi, 1984): “Các gián điệp Trung Hoa dưới sự điều động trực tiếp của tòa Đại Sứ Trung Hoa ở Hà Nội đã xúi giục Hoa kiều hồi hương “nơi đó nhà nước sẵn sàng đón rước họ để tham gia lao động tái thiết Đại Trung Quốc”. Họ nói là người Việt Nam sẽ tàn sát họ một khi tiếng đại bác đầu tiên phát nổ ở vùng biên giới Việt-Hoa.” Như thế, đối với các đảng viên cộng sản Việt Nam, nếu hàng trăm ngàn đồng hương của họ bỏ xứ trốn đi, luôn luôn là bởi sự xúi giục từ “mạng lưới ngầm” của những người nước ngoài đáng ghét.
Mặc dù bên ngoài che đậy như thế, nhưng trên thực tế, phỉ quyền cộng sản ở Hà Nội đã tìm ra hai mối lợi. Một, là cơ hội dứt bỏ một số dân chúng rất dễ trở nên nguy hiểm trong trường hợp chiến tranh vùng giới gây bất lợi. Hai, là nhét đầy túi tiền. Họ đã làm tiền người ra đi sau khi thăng tay bóc lột sạch sẽ. Ngày 24 tháng Ba năm 1978, cộng sản Việt Nam bắt đầu tung công an ra tấn công tài sản của “giới tư sản mại bản” ở Chợ Lớn, khu vực Hoa kiều tại Sài Gòn. Tất cả tài sản của cộng đồng Hoa kiều đều bị “quốc hữu hóa” đồng lúc với tư doanh. Bàn ghế, nhà cửa, nữ trang, quí thạch, đồ sứ đắt tiền, và đồ dùng các thứ đều trở thành “tài sản nhân dân”. Kho tàng của chiến tranh, mà cộng sản Hà Nội hy vọng, để bù trừ các hậu quả của việc bỏ trốn gây ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia. Không cần phải phí phạm một giây khắc suy nghĩ nào cũng có thể hiểu được rằng, sự việc đó đã đưa Việt Nam vào chỗ bế tắc sau này.
Bị khốn đốn trong tuyệt vọng, Hoa kiều đã bắt buộc phải đặt chân lên những con tàu. Người ta còn nhớ câu chuyện chiếc tàu hàng cũ kỹ tên Hồng Hải sắp bị chìm trong hải cảng Klong ở Mã Lai với hai ngàn năm trăm hành khách, đa số là người Việt gốc Hoa, đã bị khước từ không cho lên bờ. Thảm cảnh này là làm rúng động lương tâm thế giới và thúc đẩy xu hướng cấp cứu của tây phương. Một trong số đó là y Sĩ người Pháp, cựu đảng viên đã ly khai đảng cộng sản, đã tìm cách đền bù lỗi lầm vì đã hoạt động cho cộng sản bằng cách mua một chiếc tàu ra biển đông Vớt người tị nạn, mặc dù các “cựu đồng chí” của ông thấy động cơ đó không đúng chỗ.
Sự ra đi của những hành khách không ngày về đã được tổ chức trong bóng tối. Mỗi người đều phải mang nợ để đáp ứng yêu sách vô hạn định. Dù có phải hay không phải Hoa kiều đều có thể rời Việt Nam “bán chính thức. Cho dù Hoa kiều bị cưỡng bách hay tự ý ra đi đều muốn chạy thoát khỏi nanh vuốt của kẻ áp bức là cộng sản Việt Nam.
Để che đậy tội ác và lừa bịp thế giới, cộng sản Hà Nội lên tiếng xuyên tạc sự thật rằng, làm sao dám giả định là các thuyền nhân trốn lánh sự áp bức thường trực, và bọn này chỉ tuân theo mệnh lệnh Washington và muốn phá hoại nền kinh tế nước nhà bằng cách tước đoạt chất xám. Luận điệu này đã được chúng lập đi lập lại nhiều lần với báo chí phương tây. Chưa hết, mỗi ngày tên bác sĩ Việt cộng hành nghề con rối Nguyễn Khắc Viện đều kể lể trong bản thông tin của bọn phỉ quyền cộng sản và trên các tài liệu tuyên truyền của chúng dành cho “người nước ngoài” rằng, Hoa kỳ đã đề nghị cùng những người vượt biên là sẽ chở họ đi với giá từ khoảng hai ngàn đến ba ngàn đô la, đến tận các tàu Hải Quân Mỹ đậu ngoài khơi chờ đón. Những chuyên viên giỏi và trí thức không phải trả tiền. Hắn còn dám xác nhận rằng, “Giờ đây chúng tôi có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bước một ai phải bỏ xứ ra đi và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống.” Nếu một vài người bị “lầm lạc” bởi các “lực lượng phản động ở trong nước và ngoài nước” đó là vì “họ không có can đảm đi khai khẩn các vùng đất mới”. Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra thí dụ của một đồng nghiệp bác sĩ. Dưới chế độ cũ, ông bác sĩ này “đi xe ô tô và sống trong vi la có gắn máy lạnh” và trở thành “quản lý một bệnh viện công” làm sao có thể sống trong một “xã hội mới”, thích nghi với “xã hội cách mạng”? Về phần nhà nước, tuy rất tiếc khi thấy những người này ra đi nhưng không thể làm được gì khác hơn là cầu chúc họ được thượng lộ bình an.
Những bài diễn văn ngụy biện và xuyên tạc như thế thường xuất hiện dưới ngòi bút của các ký giả cộng sản, những người duy nhất vào thời điểm đó được ra vào Việt Nam, nơi đã đóng kín phía sau bức màn sắt đầy đe dọa từ tháng Năm 1975 như con nhím đang giương những cọng gai nhọn hoắc. Hai mươi năm sau, nó vẫn còn nằm trong cửa miệng của một vài tay bình luận tây phương. Như phóng viên của báo Pháp Đức, Arte (Le Grand Documentaire, ngày 11 tháng Hai năm 1995) đã chứng kiến cảnh đào thủy lợi bằng tay không của “những người dân can đảm của mười làng ra công hợp sức” và tìm được “thú vị của sự nỗ lực chung.” Giải thích lý do nhiều vạn người khác quyết định trốn khỏi nước Việt Nam cộng sản, hắn ta châm biếm rằng, họ không thể “có cảm giác xây dựng quê hương xứ sở như cha ông họ đã từng đánh giặc bằng Vũ khí trên tay.”
Chỉ có những con rối mới biết mặt thật của họ phía sau lớp Son
phấn Và chỉ có cộng Sản mới biết sự thật của họ phía sau bức màn Sät. Do đó, cựu Đại tá cộng sản Bùi Tín dĩ nhiên phải biết rõ Việt cộng hơn tên phóng viên tờ báo Arte. Ông Bùi Tín giải thích trong quyển sách *Vietnam, La face cachée du regime,” (147, Kergour, 1999) viết ít lâu Sau khi ông đến lưu Vong tại Paris. Việc hối lộ của Hoa kiều ra đi “bán chính thức” được Bộ Nội Vụ tổ chức. Được biết đó là “Kế Hoạch 2,” mục đích được giữ kín. Có cả một loạt những công tác cho phép các giới chức tổ chức những cuộc ra đi cho những người lưu vong sau khi “nhổ sạch lông” của họ một cách có phương pháp. Mỗi người phải giá vượt biên từ ba đến năm lượng Vàng (một lượng = 36 grams), có khi gấp đôi. Nhà cửa, xe, hoặc của cải để lại.
Khi đến chỗ xuống tàu, thường ở ngay tại thành phố như Cần Thơ, bên bờ Cửu Long, người ra đi phải chịu đựng sự bóc lột cuối cùng như bị tịch thu tự do các băng đảng tự cho là có quyền lục lọi lấy Vàng, nữ trang, hoặc đô la mà người tị nạn cất giấu được. Sau đó, xuống tàu với nỗi lo sợ chiếc tàu chở họ sẽ một phần hai cơ nguy bị hải tặc tấn công lấy nốt những mẩu vàng còn sót lại trên người trước khi đem họ ném xuống biển. Khi đã lên được tàu rồi, họ vẫn chưa được yên với tuần cảnh địa phương nếu tàu chưa ra đến hải phận quốc tế. Nếu muốn thoát khỏi không bị bắt lại, tốt hơn hết là đưa ra chút của cải đã được giấu vào chỗ kín nhất. Bằng không bị bắt lại tội danh là phản bội và bị “đế quốc Mỹ” mua chuộc. Tội này có thể ngồi tù từ mười hai cho đến hai mươi năm (sắc luật luôn có sẵn để tham khảo).
Những người chọn cách đi tị nạn bằng đường bộ xuyên qua lãnh thổ Lào hay Cam Bốt đến Thái Lan là bộ nhân (land people). Những cuộc hành trình Vượt biên tị nạn bằng đường bộ luôn gặp nguy hiểm, bị công an hay bộ đội hay cảnh vệ nhân dân đuổi bắt. Những người vượt biên nào “mượn được” theo với giá Quân Đội Nhân Dân ấn định chiếc xe vận tải quân sự chở quân nhu, được phép núp trong thùng lớn, cách được Sử dụng khá thường Xuyên, nhưng cũng có khá đông nạn nhân ngộp thở chết vì hơi xăng.
Những người may mắn hơn hết “có thể” kiếm được “giấy xuất cảnh chính thức” và vé máy bay đến tận Hoa kỳ nhờ vào kế hoạch do Liên Hiệp Οuόc tổ chức với sự thỏa thuận giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội vào năm 1979. Họ cũng bị hạch sách và tống tiền đơn xin xuất cảnh chính thức mới qua lọt, nhiều khi phải mất đến mười năm chờ đợi. Hoa kỳ cũng bị hạch sách đủ điều và phải trả tiền cho từng đầu người tị nạn để được phê chuẩn cho phép đi. Do đó, cộng sản Việt Nam đã phát minh ra được “những con bò sữa thuyền nhân”. Một nhà nghiên cứu ở Paris tên Bùi Xuân Quang, trong cuốn sách “La Troisième guerre d’Indochine 1975-1999” (207-590, L'Harrmattan, 2000), đã tính toán “mối giao dịch” này của cộng sản Việt Nam kéo dài ròng rã hai mươi năm kể từ 1975 đến 1995 mang lại cho ngân khố của nhà nước cộng sản Việt Nam khoảng hai mươi lăm tấn vàng. Trên thị trường tiền tệ tây phương đã xuất hiện những thỏi vàng mang dấu ấn của Việt Nam bồi hoàn những số nợ phỉ quyền cộng sản Việt Nam đã ký kết với cộng sản Nga và các xứ dân chủ nhân dân, cùng tiền mua vũ khí chiến tranh. Số vàng ấy lên đến trị giá khoảng 2.5 tỉ Mỹ kim, tính trong khoảng thời gian từ năm 1979 đến năm 1983.
Hiệp sống với nỗi ám ảnh là bỏ nước ra đi. Tôi còn nhớ tiếng nói của người thuyền nhân đã từng gặp trên bãi biển Songkla tại Thái Lan bên cạnh chiếc tàu bị hư của anh. Tôi đã được nghe anh kể lại câu chuyện thống khổ mà đến bây giờ bên tại tôi vẫn còn văng văng lời của anh.
Vào một đêm nọ ở Việt Nam, một tên cán bộ cộng sản Việt Nam đã nói khẽ vào tai anh: “Hai ngàn đô la hay bốn cây vàng.” Anh đồng ý với mối làm ăn. Nhưng khi đến chỗ hẹn, Hiệp nhận ra anh đã bị cướp. Thuyền chẳng thấy đâu, vàng bị mất. Đó là họa luôn rình rập và cũng là một trong những giá người muốn vượt biên tìm tự do phải trả. Làm sao để tránh khỏi bị lường gạt, cướp bóc, tố cáo và tìm ra đường dây tốt.
Tôi biết có một thuyền nhân đã không thành công trong việc đi tị nạn dù đã thử đến hai mươi bảy lần. Hiệp đi hụt ba lần. Sau đó, anh quyết định tự tổ chức chuyến vượt biên. Anh đã lén lút vá víu chiếc tàu đánh cá cũ. Từng đêm lo bào rồi lại trét và những đêm trắng sửa chữa máy móc. Cuối cùng ngày khởi hành đến. Chiếc tàu đánh cá cũ kỹ của anh mang theo tám mươi lăm người rời bãi xuôi giòng, trôi dọc theo những con kênh chạy dài ra biển.
Hiệp kể lại với vẻ mặt thống khổ: “Chúng tôi tám mươi lăm người trên tàu đã sung Sướng vì rời khỏi được Việt Nam. Bây giờ, ông hãy nhìn xem, ngày hôm nay, chúng tôi chỉ còn có hai người. Hai người sống sót duy nhất là Ngọc, con gái của chị tôi, và tôi.” Đầu ướt lạnh như con mèo chết đuối và thân thể đói khát gầy trơ xương sườn như một con chó hoang, cùng với đứa bé gái sáu tuổi có đôi mắt nai khờ.
Tôi đã khóc. Nước măt của kẻ thừa mứa tự do đã đô Xuông mặn ướt câu chuyện liều chết tìm tự do của anh. Anh đã kẹt lại trại Songkla cùng với Ngọc, sau khi thoát chết khỏi những bàn tay đẫm máu của bọn hải tặc Thái Lan đã giết chị anh cùng những người trên tàu sau khi chúng bắt gần hết phụ nữ.
Vào tháng Mười năm 1978, có hai mươi ngàn người tị nạn đặt chân lên bờ biển Mã Lai. Đến tháng Mười Hai, con số đã lên đến năm mươi ngàn. Cộng thêm năm ngàn người vượt biên bằng đường bộ với ước vọng đến được bến bờ tự do. Trong vòng bốn tháng, hòn đảo hoang Pulau Bidong, Phi Luật Tân, đã đón nhận hai mươi ngàn kẻ bị ruồng bỏ. Vào khoảng giữa năm 1979, có năm ngàn người tị nạn mới đến thêm vào số những người khốn khổ tại trại tị nan Hồng Kông. Trong khi đó, chín mươi ngàn năm trăm người đã đầy trại tị nạn Mã Lai. Những người bị cảnh sát địa phương từ chối đẩy ra biển đã trôi dạt đến Nam Dương, hoặc xa hơn nữa đến Triều Tiên, Nhật, có khi đến tận Úc. Hãy nhắm mắt và tưởng tượng cuộc hành trình liều chết tìm tự do của họ trên khoang tàu bé nhỏ mong manh.
Bất thình lình, một hồi chuông báo động nổi lên, hai nước Thái Lan và Mã Lai tuyên bố không nhận thêm thuyền nhân mới. Bị dồn vào đường cùng, Liên Hiệp Quốc phải triệu tập một hội nghị quốc tế tại Genève và thu hoạch được ba kết quả. Các nước ở vùng duyên hải bảo đảm là thuyền nhân không bị đẩy lui ra biển. Các quốc gia tiếp nhận thêm thuyền nhân gia tăng số lượng tái định cư bổ túc là một trăm ba mươi ngàn người. Quan trọng nhất là Hà Nội lo ngại bộ mặt bị bôi đen tối dần ở biển đông trước sự bất mãn của thế giới đã cho phép người dân ra đi chính thức hợp pháp “trong vòng trật tự” bằng phương tiện hàng không. Chương trình này Liên Hiệp Quốc goi là ra đi trong vòng trật tự, Orderly Departure Progam (ODP).
Kể từ giờ phút đó, nhịp độ người vượt biển đến các trại tị nạn thưa thớt một cách rõ rệt. Mức độ từ ba trăm ngàn người vào năm 1979 giảm xuống chỉ còn hai bốn ngàn năm trăm người vào năm 1984. Đến năm 1986 chỉ còn mười chín ngàn năm trăm người. Cũng vào năm đó, lần đầu tiên, các chuyến ra đi tị nạn bằng hàng không với giấy nhập cảnh nhiều hơn con số những người trôi dạt đến bằng đường biển. Kết quả của hội nghị thuyên nhân tại Genève đã thỏa mãn thây rõ, một giải pháp mới cho vân đê thuyên nhân mà Liên Hiệp Quôc nhăm vào.
Chỉ hai năm sau, tình hình lại đổi ngược và làm cho thế giới thất Vọng. Những người tị nạn đi tìm tự do lại trở ra biển. Con số tăng lên bốn mươi lăm ngàn người vào năm 1988 (hai mươi lăm ngàn người nhiều hơn hai năm trước đó). Bảy mươi mốt ngàn ba trăm người vào năm 1989. Cộng thêm vào khoảng mười bảy ngàn bộ nhân. Vấn đề không giải quyết được, các quốc gia ở vùng duyên hải bắt đầu nổi giận.
Tại trại tị nạn Hồng Kông mỗi ngày có ba mươi bốn ngàn thuyền nhân mới nhập trại. Chính quyền Hồng Kông đã quyết định đưa những người mới vào trại tạm giam. Thế là những cuộc nổi loạn và tử tự nổi lên do quyết định của chính quyền Hồng Kông.
Để đóng chặt cánh cửa ngăn chặn hẳn mạch chính làn sóng vượt biển tìm tự do không ngưng này, các quốc gia tiếp nhận di trú lại tập họp thêm một lần nữa và tìm ra biện pháp mới là Plan d’Action Global (PAG), chương trình Hành Động Toàn Cầu. Thuyền nhân nào đến một quốc gia lân cận trước ngày 14 tháng Ba năm 1989 được quyền xin cư trú, là người tị nạn chính trị có quyền được sống ở một nước tây phương khi được cấp visa nhập cảnh. Đối với những người lên bờ Sau ngày đó đều bị xếp loại tị nạn kinh tế. Hoặc phải chứng minh được sẽ bị xử tội, hoặc bị đe dọa nếu không sẽ bị cưỡng bách hồi hương, trừ phi quyết định tự quay về nước.
Quy chế tị nạn chính trị của Hiệp đã bị từ khước, không có cơ hội được nhận vào Hoa kỳ. Anh đã phân vân rất lâu trước khi chấp nhận hồi hương. Cũng như phần đông các người tị nạn khác, anh sợ bị tù khi trở về Việt Nam. Anh chưa bao giờ làm chính trị nhưng có người anh từng chiến đấu trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa và ông nội làm việc cho chính phủ bảo hộ. Hai vết đen đó trong lý lịch cá nhân có thể khiến anh phải trả giá rất đắt. Nhưng một lá thư từ Sài Gòn gởi đến trại tị nạn Phanat Nikhom, Thái Lan, đã trấn an anh phần nào. Một trong những người bạn vượt biên của anh đã tình nguyện về Việt Nam cho anh biết mọi chuyện khá tốt đẹp và khuyến khích anh cùng về.
Năm 1993, tôi gặp lại Hiệp ở quê hương anh và lại khóc lần nữa. Lần này, chúng tôi cùng khóc mừng khi thấy anh đã thoát nạn. Anh là một trong một trăm mười ngàn cựu thuyền nhân kể từ năm 1989 đã chọn hồi hương thay Vì tiếp tục chết dần chết mòn ở một trại tị nạn Á châu. Nhờ có sự giúp đỡ tài chánh của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc và Liên Minh u Châu, giờ đây anh đã trở thành chủ nhân của một xưởng pha chế nước mắm và một căn nhà nho nhỏ hai phòng gần Vũng Tàu, người Pháp gọi la Cap Saint Jacques, trên bờ biển miền nam ngày xưa anh đã bỏ ra đi tìm tự do không bao giờ có và tưởng rằng không bao giờ anh sẽ trở lại đây. Anh sống cùng góa phụ của một trong những người bạn đã mất trên biển khi đi tìm tự do, cùng người em gái và ba đứa con của bà. “Nhà của chúng tôi tuy nhỏ nhưng có thể chứa đủ thứ. Ở trên thuyền ít chỗ hơn.”
Trong cuộc vận động và thỏa thuận cùng Hà Nội, Liên Hiệp Οuόc đã cố gắng tạo điều kiện tốt cho những người cứng rắn giúp cho họ tự quyết định sắp xếp quay về. Họ chiếu những cuốn phim quay tại Việt Nam cho thấy cạnh những cựu thuyền nhân tình nguyện hồi hương “sống như những ông hoàng”. Các cán bộ cộng sản còn đến gặp họ để tâng bốc. Họ gáy lên những điệp khúc tuyên truyền là Việt Nam đã thay đổi và sống tự do, ai đói cứ ăn. Bọn phỉ quyền Hà Nội tự khen chúng.
Những con bò sữa thuyền nhân đã mang đến cho bọn phỉ quyền Hà Nội rất nhiều quyền lợi và vẫn tiếp tục cung cấp sữa dù ở tận bên kia bờ Thái Bình Dương. Những gói quà gởi về cho gia đình và không bao giờ ngưng gởi nuôi thân bằng quyến thuộc còn kẹt lại ở Việt Nam bắt đầu từ ngày đầu tiên đặt chân định cư trên một quốc gia tự do. Những đồng tiền mồ hôi nước mắt không bao giờ ngưng chuyển giúp đỡ người thân sống còn. Những chuyến về thăm thân bằng quyến thuộc. Ước tính vào năm 1999 có đến hai tỉ đô la hàng năm thuyền nhân đã mang lại cho phỉ quyền cộng sản, một phần ba ngân sách của nhà nước cộng sản Việt Nam.
Gân hai triệu người Việt Nam đã chọn đời sông lưu vong nơi xứ lạ quê hương thay vì làm nô lệ cho cộng sản. Hàng trăm ngàn người đã gục chêt trên đường trôn chạy nanh Vuôt cộng sản Việt Nam. Kẻ nào đã dám ăn nói ngược ngạo và tuyên truyền láo khoét rằng toàn thể nhân dân miền nam Việt Nam đoàn kết cùng “anh hùng giải phóng” vào năm 1975?
Tôi còn nghe anh nói run rẩy trong bộ bà ba ướt sũng nước biển, gia tài duy nhất còn sót lại trong đời anh. Giữa vùng Vịnh Thái Lan, tiếng máy tàu của Hiệp như văng văng tiếng kêu của những linh hồn lìa xác. Thức ăn và nước uống sắp cạn. Những người đàn bà quì trên khoang khấn nguyện trời đất. Phải chăng trời đất đã chấp thuận lời cầu nguyện của những thuyền nhân vừa thoát khỏi nanh vuốt cộng sản và đang giẫy chết giữa lòng đại dương.
Vào giữa trưa ngày thứ sáu, một chiếc thuyền lướt sóng chạy nhanh về phía họ. Rồi hai chiếc... Rồi ba chiếc... Thoát nạn chăng? Nhưng... than ôi! Đó là những chiếc thuyền hải tặc Thái Lan. Chúng cướp bóc trên tàu, giết chết những người đàn ông chống cự, bắt đi mười tám người đàn bà trẻ, rồi bỏ đi sau khi đâm thủng tàu. Những người cố bám vào thân tàu bị chúng dùng gậy đập chết. Khi trời sáng, chỉ còn hai người sống sót đang bám víu vào sự sống cuối cùng là chiếc thùng đựng nước bằng nhựa. Định mệnh của họ bập bềnh theo Sóng biển vô tình. Hai người đó là Hiệp và Ngọc, cô bé gái có đôi mắt của con nai bị thương vừa thoát lưỡi hái của tử thần. Tôi nhìn cô bé đầu nghiêng, mắt nai, tựa cằm trên bàn và đăm đăm nhìn tôi với ánh mắt để đời. Dường như tuổi thơ đã bỏ em mà đi. Cô bé chỉ còn lại khoảng trống rỗng của đời người vô định. Một chiếc bình hoa tuyệt mỹ đã rơi xuống thềm địa ngục và tan vỡ giữa trần gian.
Đó là lịch sử của những người chạy trốn nanh vuốt cộng sản mà đời gọi họ là thuyền nhân, cũng có những người mệnh danh họ là kẻ chết đuối cho tự do. Lịch sử của một dân tộc trong hai mươi năm trường đã bị tàn hại dưới nanh vuốt của một thứ chính trị đầy thù hận và kỳ thị của bất cứ một chế độ cộng Sản nào.
-Michel Tauria
Nguồn: sưu tầm