TƯỜNG TRÌNH - KHÚC HÁT DU CA
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness

Nỗi Bất Hạnh Của Đời Tôi


Lời Hay:

Nỗi Bất Hạnh Của Đời Tôi

Viết để kính dâng linh hồn mẹ Phạm Thị Khanh, ông ngoại Phạm
Văn Đình, cậu Phạm Văn Tiếng. Các anh Nguyễn Bá Liêm, Nguyễn Bá Chương, Nguyễn Bá Long. Các em Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Bá Đạt, Nguyễn Bá Hoài. Chú Nguyễn Văn Dậu. Các em con dì Nguyễn Thị Minh Châu, Nguyễn Thị Minh Xuân, Nguyễn Minh Toàn. Linh mục Hồ Quang Liêm. Chú Hồ Quang Lập. Và các anh bà con với Cha Liêm mà tôi không nhớ tên.
Viết cho ba Nguyễn Bá Quang. Ba và con cùng một nỗi buồn bất hạnh trên cuộc đời này.
Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men một cách bí mật. Vào đêm 19 tháng Hai năm 1985 (khoảng 30 tháng Chạp âm lịch), trời tối đen, mẹ và bảy anh chị em chúng tôi, ông ngoại, gia đình dì ruột, gia đình Cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm đen lần lượt đến điểm tập trung tại bãi Đá Bạc, Cà Mau, tỉnh Minh Hải.
Chúng tôi yên lặng lên thuyền, hai mươi hai người có mặt đầy đủ. Tiếng máy nổ dòn lướt sóng ra biển khơi. Mọi người đều nín thở, hồi hộp.
Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam. Mọi người thở ra nhẹ nhõm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường du đầy nguy hiểm và bất trắc nhất. Nếu chẳng may bị bắt lại, sẽ bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát khỏi vòng kiểm soát của công an Việt Cộng đang miên man, bỗng đằng xa chiếc tàu lớn hiện ra. Tim tôi đánh thình thịch. Tàu của ai đây, của cộng sản hay thế giới tự do? Càng lại gần, càng hồi hộp. Một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô. Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thăng, đã qua thêm một sự nguy hiểm. Cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi đã định trước. Chạy thêm vài giờ nữa, đằng trước hiển hiện một chiếc thuyền đánh cá treo cờ Việt Cộng, cờ đỏ sao vàng, bên hông tàu có hai chữ Kiên Giang. Giây phút trọng đại, mọi người nín thở. Từ thuyền Kiên Giang bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại cho họ kiểm soát.
Không thể để bị bắt phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực chạy. Một loạt đạn AK nổ giòn bắn về phía chúng tôi. Tài công là anh hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, mẹ bị thương ở bả vai, ông ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ Việt Cộng, công an mang theo súng. Bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người kể cả những em bé ba, bốn tuổi. Chúng tịch thu một số vàng và đô la mà mọi người mang theo. Chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao cho công an địa phương “xử lý”. Ông ngoại tôi là người tuổi nhất trong thuyền ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt cố gắng năn nỉ, giải thích: “Các anh cho chúng tôi đi. Nếu các anh đưa chúng tôi trở về lại bờ Việt Nam, các anh chẳng có ích lợi gì cả. Chúng tôi bị tù tội. Tiền, Vàng các anh Vừa tịch thu cũng phải giao nạp cho công an mà thôi.” Sau đó, bọn họ cho chúng tôi đi và chỉ hướng cho tàu chạy.
Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, chậm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện. Khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, những dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy. Với tốc độ rất nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều nguy hiểm, lần này tôi quá hồi hộp và lo sợ như nín thở, những đứa trẻ cũng như biết được những gì quan trọng sắp xảy ra nên ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động.
Tiếng nói ở thuyền bên kia lạ không ai hiểu gì. Lúc đó, Cha Liêm biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ. Toán người kia như không nghe biết, cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa bị vơ vét sạch sẽ những gì mà tàu Kiên Giang Việt cộng vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục Soát chẳng được là bao chúng đi nhìn từng bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào đàn bà, con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị H. bạn gái của anh Hai liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó. Trước cảnh dã man này, mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới mười tám tuổi, chị H. xấp xỉ tuổi tôi hay lớn hơn một tuổi), đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lạy xin chúng tha. Ông ngoại, Cha Liêm năn nỉ nài xin chúng chẳng màng nghe. Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó, chúng tôi lôi chúng tôi xuống nhốt vào hầm tàu tối đen. Từ đó, tôi không hay biết chi những việc xảy ra bên ngoài nữa.
Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, quay lại đâm vào thuyền chúng tôi làm thuyền vỡ chìm. Chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp sau khi tôi gặp lại dì ruột tại trại tị nạn Song La.
Ngồi trong hầm tàu đen tối mà lòng tan nát, tôi trấn tĩnh mình bằng lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria. Hiện ra trước mắt tôi là hình ảnh mẹ, các anh, em giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu, đã được tàu của thế giới tự do vớt chưa? Ba tôi là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang ở trong tù cộng sản mười năm rồi, tại trại Tiên Lãnh Quảng Nam Đà Nẵng, tương lai sẽ ra sao đây? Tôi nhớ những người thân thương, đầu óc rối bời, như có muôn vàn mũi kim nhọn đâm Vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát. Chưa bao giờ tôi nghĩ hoặc tưởng tượng hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn ra đầy má mà chẳng hay biết gì đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng lóe sáng trong đầu chắc mẹ, các anh và em còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và tôi sẽ được gặp lại.
Ở trên tàu bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tàu đánh cá thứ hai, chị H. bị giữ ở lại. Trên tàu chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu gì cả, chỉ biết cảm nhận theo linh tính thấy tàu này chuyên lo đánh cả, chắc là vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp. Một tuần sau, chúng lại chuyển tôi qua một tàu khác. Cứ thế lênh đênh trên biển cả, tôi đếm được đã qua ngày thứ năm mươi mốt. Ngày này, chúng chuyển tôi qua một tàu khác, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những tàu trước. Vào khoảng nửa đêm, một tên bước vào kéo tôi dậy. Nhìn cặp mắt nó dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run lên bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên cứu giúp. Chúng nó sờ mó và bắt tôi cởi hết quần áo. Chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp cứng hai chân lại, hai tay ôm chặt lấy ngực và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ bên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi, tôi bị tai nạn phỏng dầu làm đường năm mươi phần trăm, khi chữa lành vẫn còn vết thẹo lớn luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến, tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo của tôi là bị bệnh phong cùi hay gì chăng. Sau khi bàn bạc, chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì để có thể nổi trên mặt biển.
Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát bàn tay những con quỉ dữ và cố gắng bơi hai chân để người nổi trên mặt nước. (Ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội giỏi.) Trên biển giữa đêm đen không gì ghê rợn bằng, tôi cố hết sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương. Bản năng Sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin Mẹ Maria bổn Imạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa, hình ảnh mẹ, các anh, em và ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như một khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may ra có người cứu vớt, vì thế mà đã qua được năm tiéng đồng hồ trên biển lạnh. Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi nhưng người ngày càng lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng được nữa ồi. May thay, tiếng động cơ của thuyền chạy tới, tôi cố giơ tay lên nhưng toàn thân như cóng cứng. Rất may trên thuyền đã nhìn thấy tôi, dừng lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Quả như lòng mong ước, tôi được họ Săn Sóc tận tình, cho áo quần mặc, cho ăn uống đàng hoàng. Họ đã dùng máy vô tuyến gọi cảnh sát Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ đưa đến trại tạm Battani, sau đó chuyển qua trại Song La và đến trại Sikiew.
Hàng ngày ở trại cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hàng đêm cầu nguyện cho Vơi đi ít niềm đau, mong chờ mẹ, các anh, em đến, nhưng càng ngày càng thấy bặt vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại, tôi thường đến cầu mong gặp lại người thân. Hôm nay, tôi bất thần thấy dì Sa, em mẹ, thất thểu bước vào trại. Dì cháu gặp lại nhau nước mắt tuôn trào như mưa. Dì đã kể những gì đã xảy ra khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu chúng.
“Sau khi bọn hải tặc bắt con và H. qua tàu chúng, vì không chịu nổi những uất ức, các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng nó có súng, các anh con đành thúc thủ. Chùng lồng lộn lên lục soát nát bét tàu. Bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy. Mọi người chưa kịp hoàn hồn đã thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền đánh rầm, thuyền vỡ đôi. Một số người văng xuống biển, đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mọi người bơi lội Vớ lấy Ca đựng dầu, đựng nước làm phao. Các anh con Chương, Long bơi vớt những tấm ván bể kết thành bè, kèm bên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nôi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Hai Liêm đã ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều đã bị thương.
Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xấm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh, đói và khát nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau cùng sống chết. Thấy các em đói khát và lạnh quá tội nghiệp nên Chương liều bơi lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn nhưng lâu mà vẫn chưa thấy Chương trở lại. Mẹ và dì kêu gào thật lâu nhung chẳng có tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay là ra đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp phù hộ. Phía bên kia có linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng đã ra đi.
Ngày thứ hai từ lúc đắm thuyền chỉ còn lại dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi đã tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài, hai em con ôm mẹ khóc thảm thiết. Dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời. Dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con vào lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát đã lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, còn biết gì nữa đâu, đặt con xuống nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng.
Ngày thứ ba chỉ còn dì, em Đạt của con mệt quá gục trên tâm ván. Bỗng nó ngồi nhổm dậy nói:
- Đê con lây nước cho dì. Con thây có dòng Suôi trong xanh, nước ngon ngọt lăm dì ơi.
Nó định bước xuông đê đi, dì câm tay kéo lại nói:
- Con ơi, không có đâu. Đó chỉ là ảo ảnh mà thôi. Con ngôi xuông đây đọc kinh với dì xin ngài ban ơn phước.
Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát quá chịu hêt nôi. Dì nói trong vô thức:
- Hay con uông đại một hớp nước biên xem có chông chọi được không?
Sau khi uông một miêng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiêp, nước bọt giông Xá phòng trào ra nơi miệng, cháu lịm người dân và năm yên bât động. Người cuôi cùng ở bên cạnh dì cũng đã ra đi.
Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng thiêu như đốt, bỗng đám mây đen kéo đến, trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì. Dì liếm từng giọt nước nhưng người đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa. Khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Lan. Theo tàu họ trên biển, mười lăm ngày sau được đưa vào trại Batani, qua trại Song La và dì gặp con tại đây.
Ôi những biến cố trong đời làm tôi điên dại. Sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang tối âm u. Tôi đã mất mę, mất anh, mất em, mất ông ngoại, mất cậu, mất cháu, và những người thân yêu. Mười tám người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả. Đó là tất cả nỗi bất hạnh của đời tôi.
Mẹ ơi! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba. Ba đã chịu bao nhiêu đắng cay tủi nhục trong ngục tù cộng sản. Các anh ơi! Các em ơi! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn ly biệt tôi một cách tức tưởi. Khổ đau tột đỉnh. Hận thành non cao. Biển xa Sóng lớn dạt dào. Nhớ anh, nhớ em, nhớ mẹ biết ngày nào nguôi.
Australia 12/2002.

-Thùy Nhiên

Nguồn:  sưu tầm
Đọc thêm những cuộc hành trình vượt biên khác
​
Powered by Create your own unique website with customizable templates.
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness