TƯỜNG TRÌNH - KHÚC HÁT DU CA
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness

Qua Cơn Hồng Thủy


Lời Hay:

Qua Cơn Hồng Thủy

Biến cố 1975 là cơn hồng thủy cuốn trôi xã hội Việt Nam vào B giòng nước xoáy xuống vực sâu thăm thẳm. Gia đình tôi không thoát khỏi cơn hồng thủy đó đã lênh đênh trôi dạt trên biển đông tìm đường sống từ cõi chết.
Chuyến hành trình biển đông bắt đầu vào tháng Sáu năm 1980. Tôi dắt ba con nhỏ, đứa lớn nhất lên mười, bé nhất lên năm, và một thằng cháu con của ông anh lớn cùng xuống thuyền. Chủ tàu dặn trước, mỗi người chỉ mang theo một bộ quần áo, tuyệt đối không được mang đồ kềnh càng, ăn uống do chủ tàu lo. Cẩn thận, tôi mang theo một ít cơm nắm thịt ruốc sợ các con tôi đói dọc đường. Tôi còn khâu vào bộ quần áo mang theo của chúng mấy chỉ vàng phòng hờ chẳng may thất lạc chúng có vật tùy thân.
Giờ đổ người lên thuyền bất ngờ vào giữa trưa, khác với những chuyến trước thường là vào ban đêm, diễn ra thật nhanh gọn khiến tôi choáng váng đến ngộp thở không nhận biết được gì.
Phút chốc, tôi đã thấy mình bị đẩy lên thuyền vượt biên với ba con. Cùng lúc, có tới bốn hay năm ghe nhỏ khác đổ thêm người lên thuyền. Sau đó, chúng tôi bị đẩy xuống khoang thuyền, mấy người tổ chức vượt biên phủ lưới lên trên ngụy trang thành tàu đánh cá.
Ngồi trong khoang, tôi quan sát chung quanh. Thuyền rất nhỏ, bề ngang chỉ độ một mét, bề dài hơn mười mét, lòng khoang hẹp ghép bằng những miếng ván và có những thành gỗ đóng ngang cạnh thuyền cách nhau nửa mét. Phía trên chỉ có một lỗ thông hơi nhỏ. Về sau tôi mới hay máy tàu chỉ có ba phần tư mã lực mà có tới ba mươi người lớn nhỏ xếp cá mòi trong thuyền.
Mấy người lớn khỏe mạnh bắt đầu lấn áp mẹ con tôi khiến chúng tôi ngộp thở vô cùng. Đứa con út quá nhỏ cứ đòi ngồi trong lòng mẹ, các đứa khác ngồi trên những thanh lườn thuyền than khóc không thôi. Tôi phải nuốt lệ, cố tìm lời dỗ dành khuyên bảo chúng. Sau một ngày vật lộn với chen chúc và sóng gió, các con tôi đều mệt lả, thiếp đi. Tôi phần vì lo lắng, phần sợ hãi nên cứ trơ trơ ngồi canh chừng trong tư thế khó chịu, đau đớn vô cùng.
Đến tối, thuyền bỗng ngưng chạy. Hỏi ra mới biết, máy yếu chở quá nặng nên không chịu nổi. Ngặt một nỗi, thuyền chưa ra khỏi hải phận nên ai cũng sợ bị tàu Việt cộng bắt lại chỉ có nước ngồi tù cả đám. Trong lúc người lái tàu sửa máy, đám thanh niên leo hết lên trên bong tìm chỗ nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi thay vì ở dưới khoang phụ tát nước. Họ để máy dùng tát nước chạy phun khói mịt mù.
Vợ con chủ tàu an nhiên tỏa hưởng trên cabin, chỉ khổ cho trẻ con và những bà mẹ như tôi phải chịu cực hình khói xông. Chị bạn tôi thấy con cái ngộp thở, ho sặc sụa đã van xin chủ tàu tắt máy mãi nhưng không được, chị bèn nguyền rủa, chửi bới um Sùm về sự vô nhân đạo và tắc trách của chủ tàu.
Bọn chủ tàu và thợ máy không những không nghe còn sẵng giọng
măng Xuông: - Mây bà im môm đi. Trước tụi tui cân Vàng nên đưa mây bà đi.  Bây giờ không cân nữa, con mây bà có chêt cứ Việc liệng xuông biên. Đừng có la lôi.
Tôi biêt nêu đê tình trạng kéo dài vài giờ nữa lũ trẻ sẽ chêt ngộp do hơi độc carbon tỏa ra. Bản năng tự vệ môi lên, tôi vẹt mọi người ra và leo lên bong dõng dạc:
- Tôi xin lỗi tất cả các anh đi học tập có mặt trên tàu vì việc tôi sắp làm có thể nguy hại đến các anh. Tôi đứng đây chờ tàu Hải Quân Việt cộng đi qua sẽ la to cho họ đến bắt, giải cứu các con chúng tôi trước để khỏi bị chết ngộp, Việc tù đầy tính sau. Tính mạng trẻ con là trên hết!
Do lời nói cứng cỏi và ý chí mãnh liệt của tôi, bọn họ đành phải bàn tính lại. Rồi họ tắt máy tát nước, cho hết các trẻ con lên bong, các bà mẹ cùng theo lên. Các thanh niên xuống thay phiên nhau tát nước. Gần sáng máy chạy được, tàu thoát ra hải phận. Thật hú hồn!
Song, “họa vô đơn chí phúc bất trùng lai.” Đi được hơn một ngày, chúng tôi gặp ngay một tàu hải tặc Thái Lan. Vừa thấy tàu cướp, chủ tàu đã vội ra lệnh tất cả đàn bà trẻ con xuống hết khoang thuyền. Bị bít bùng, chúng tôi không hay biết chuyện gì xảy ra ở trên, chỉ sợ gần chết vì đã từng nghe chuyện hải tặc Thái Lan cướp của, giết người không gớm tay, hãm hiếp phụ nữ thật dã man là nghề của bọn này.
Bỗng có lệnh gọi hết mọi người lên bong. Ba, bốn tên cướp súng dắt bên sườn, tay khoa mã tấu sáng loáng. Chúng xuống khoang lục soát kiếm vàng, bắt mọi người cởi hết quần áo để khám xét. Bao nhiêu nhẫn vàng và đồng hồ đeo tay đều bị chúng lột hết.
Lùng sục xong khoảng một tiếng đồng hồ, chúng ra lệnh cho chúng tôi qua tàu chúng. Trong cơn giục giã xô đẩy hỗn loạn của bọn cướp, tôi cũng bị kéo qua tàu chúng. Trẻ con bị thẩy qua như thẩy banh.
Nhìn lại, tôi thấy bị mất sạch hành lý trong đó có giấu mấy chỉ vàng nhưng thấy còn đủ ba đứa con tôi mừng rỡ chạy lại ôm chúng khóc mức nở.
Tôi len lén nhìn bọn hải tặc. Trời ơi! Chúng dễ sợ quá, đầu quấn khăn, mình để trần nhễ nhại mồ hôi quẩn mỗi cái sà rông, tay lăm lăm mã tâu trông như những quái vật đâu người mình thú. Tôi lo lăng không biêt chuyện gì sẽ xảy ra và nghĩ thôi đành phó mặc cho Sô mệnh.
Nhưng bọn hải tặc cho chúng tôi ăn. Các con tôi sung sướng lắm vì đã hai, ba ngày từ lúc lên tàu đã bị đói khát. Những nắm cơm đi đường ít ỏi chúng đã ngốn sạch. Trước khi lên tàu, chủ tàu có hứa lo đồ ăn nhưng họ làm ngơ.
Tối đến nằm trên bong tàu hải tặc, tôi ôm chặt đứa út không ngớt cầu nguyện ơn trên ban phước lành cho các con. Chợt tôi nhìn sang đứa con gái lớn mười tuổi đang ngủ say, sợ hãi và hối tiếc không cho nó mặc đồ giả trai. Chưa kịp nghĩ xa hơn, những ánh đèn pin loang loáng rọi đến chỗ chúng tôi nằm. Một cô gái bị đánh thức và đưa lên phòng lái. Rồi cô thứ hai, thứ ba... những cô gái tuổi xanh mơn mởn. Tôi rùng mình sợ ánh đèn pin chiếu đến con gái tôi. Tôi thầm khấn xin cho tôi thay cháu làm vật tế thần nếu có chuyện gì xảy ra, đừng để con tôi phải chịu đọa đày. Cả đêm hồi hộp lo âu, tôi không tài nào chợp mắt. Cũng may, bọn chúng chỉ bắt mấy cô gái trẻ để hành lạc chứ không man rợ hãm hiếp phụ nữ ngay trước mặt chồng con họ khiến cho vợ phát điên, chồng tự vẫn vì phải mục kích những cảnh kinh hoàng khủng khiếp đó như các tàu hải tặc khác.
Sau đêm thỏa mãn thú tính, sáng ra hải tặc đuổi chúng tôi về tàu cũ đã bị cướp sạch những gì có thể cướp được và phá nát máy tàu để tìm vàng. Thế là chúng tôi lênh đênh trên biển cả không có chút đồ ăn, nước uống.
Sáng sáng, tàu theo giòng nước trôi ra khơi. Tối tối, sóng đánh dạt về phía bờ. Thấp thoáng như có bóng đảo Côn Sơn. Trong tình huống tuyệt vọng, ai cũng mong được trôi dạt trở về, tù tội cũng cam lòng.
Tội nghiệp các con tôi mới ngần ấy tuổi đã chịu cực hình ngồi bó gối trên những thanh gỗ nhỏ gồ ghề, chịu nhịn đói nhịn khat ngày này qua ngày khác, chịu đọa đày nóng thiêu đốt ban ngày, lạnh cóng Sương ban đêm. Mỗi khi trời mưa, chúng tranh nhau ra phía cửa khoang, ngửa miệng hứng từng giọt. Nhiều lúc chúng nức nở kể lể: “Sao mẹ bắt con phải đi khổ thế này. Con thèm nước đá chanh quá. Con thèm bát cơm rang quá.” Rồi chúng thay nhau kể ra những món chúng ưa thích, nào xá xị, hủ tíu, chè, cháo, bánh bao. Nghe chúng than khóc, kể lể, chủ tàu nạt lớn: “Im mồm chúng mày đi. Kể lể làm tụi tao cũng bắt thèm luôn.” Tôi vừa buồn cười, vừa giận bọn chủ tàu nhưng phải cố gắng trấn an các con với viễn vọng huy hoàng mai này.
Nói sao cho hết nỗi đói khát, cơ cực giữa lòng biển cả mênh mông. Nước biển tràn đầy xung quanh nhưng chúng tôi vẫn khát. Cá bơi lội ê hề nhưng chúng tôi vẫn đói. Đứa con gái lớn nói:
- Con không chịu nổi nữa đâu. Thôi con nhảy xuống biển chết đi cho khỏe.
Tôi phải ôm nó vào lòng dỗ dành hết lời mà nó cứ làm càng với tôi, tôi dọa lại:
- Con thử nhảy xuông xem nào.
Nó ấm ức:
- Con phải được uông một ly nước đã thèm rôi con mới nhảy Xuông được.
Tôi mỉm cười:
| – Nếu có một ly nước mọi chuyện sẽ thay đổi ngay. Con ráng đợi ly nước đó nhe con.
Mấy con lịm dần trong cơn mê vì đói khát lả người. Chúng như không còn cảm giác, lúc tỉnh lúc mê và đang đi dần vào thế giới nào khác. Nhìn chúng, niềm đau lòng làm thắt ruột gan tôi. Tôi bỗng thù hận tất cả. Hận cộng sản đẩy người dân vào đường cùng đến nỗi phải liều mạng với biển rộng trời cao để tìm tự do. Hận đồng hành vô tình, ích kỷ, chèn ép mẹ con tôi. Hận cả chính mình ngu muội và bất lực không bảo vệ được con. Tôi hận, hận tất cả.
Sang đên ngày thứ mười bôn, tình trạng các con tôi tệ hại vô cùng.  Chúng lở lói, thân hình nhớp nháp những phân và nước tiểu, thê thảm khôn cùng. Đứa út còn tệ hại hơn, Vừa đói khát, Vừa kiết lị nên khô đét như nắm xương bọc da nhăn nhúm, nằm thoi thóp nửa tỉnh nửa mê.
Đang lúc quá thất VQng, bỗng có một tàu đánh cá Thái Lan xuất hiện. Cả tàu lại xôn xao. Mọi người không còn gì để mất nữa nên không sợ hãi như lần trước. Tất cả chỉ mong được thức ăn, nước uống rồi có chết cũng cam tâm. Để làm mủi lòng ngư phủ tàu Thái, vài người vội vàng bồng con gái út nhỏ bé của tôi giơ cao lên hướng về phía họ. Tội nghiệp con bé thở thoi thóp trong hình hài chẳng giống người.
Tàu ngừng lại nhìn qua, có lẽ thấy cảnh tượng thương tâm nên cứu mọi người. Khác với bọn hải tặc lần trước, họ rất tử tế thòng dây qua giúp từng người sang hết tàu họ, bỏ lại con tàu ọp ẹp của chúng tôi sắp chìm trong sóng biển. Kiếm được đầy đủ các con an toàn trên tàu đánh cá rộng lớn, tôi mừng như chết đi sống lại. Mọi người được ăn uống no nê. Trẻ con được uống cả nước ngọt và sữa. Tôi xin một ly sữa, nhỏ từng giọt vào miệng con út nhưng cháu rất yếu chỉ thều thào nuốt được Vài ba giọt.
Hỏi thăm, tôi biết được ông chủ tàu Thái trước đây đi đánh cá từng bị công an Việt cộng bắt, may gặp một bà mẹ Việt Nam cứu thoát nên nay muốn trả ơn xưa.
Tàu vào gần đất liền, ông cố gắng tìm một làng đánh cá hẻo lánh, trong đêm đó chuyển lậu chúng tôi lên bờ và vội vã ra khơi để tránh liên lụy. Chính phủ Thái và nhiều nước lúc đó không nhận người tị nạn Viêt Nam.
Chúng tôi nằm ngủ thiếp đi dưới những gốc dừa. Sáng dậy thấy dân địa phương khám phá ra kéo đến xem chúng tôi. Cảnh thê thảm tang thương của đoàn người phiêu lạc, Sa cơ thất thế làm họ thương cảm sụt sùi. Rất tử tế, họ mang cho chúng tôi nải chuối, trái dừa, bắp luộc đượm thắm tình người. Sau đó, chúng tôi được đưa đến trại cảnh sát Thái, ở tạm trong khu chuồng bò để chờ Hồng Thập Tự Quốc Tế và được cấp gạo, cá khô.
Mọi người sung Sướng ăn uống no nê. Riêng con gái út tôi kiệt sức vì kiết lị và mất nước nên nằm thoi thóp, rúm ró trong bọc Vải, chắc không sống nổi ba ngày nữa để chờ Hồng Thập Tự đến giúp. Tôi vội hỏi mượn đám chủ tàu ít tiền để ra ngoài mua sữa cho cháu nhưng họ làm ngơ, lén lút dúi tiền cho con cháu họ mua quà bánh ăn. Túng quá, tôi ôm cháu ra ngoài chợ mong dân địa phương thương hại để xin một hộp sữa cứu sống cháu. Vừa đến cổng trại, gặp ông đại úy Thái Lan cụt chân vẫy lại hỏi tôi đi đâu. Tôi nói đi ra chợ xin hộp sữa cho con và mở bọc vải để lộ thân hình bé teo. Ông ứa nước mắt nói không có sữa, cho tôi hai mươi Bath tiền Thái. Nhờ có hai mươi Bath (đúng một đô la Mỹ), tôi mua một hộp sữa, ít chanh, đường về pha cho cháu uống. Cháu từ từ hồi sinh. Ba ngày sau Hồng Thập Tự đến, con tôi đã thoát khỏi ách tử thâm.
Chúng tôi được chuyển đến trại tị nạn Song Kha. Sau đó, được chồng và con trai lớn đã vượt biên năm trước bảo lãnh sang định cư tại Mỹ.
Cơn hồng thủy tràn vào nước tôi đã dìm bao nhiêu người dân lành xuống biển đông. Đã hơn hai mươi năm qua, chuyện kể vượt biển đông vẫn như vừa mới hôm qua. Phải trải qua đói khát, khổ đau, ô nhục và nước mắt, tranh sống chết với thiên nhiên mới thấy hết sự chịu đựng bền bỉ của những người đành bỏ lại tất cả mà ra đi. Trong kinh hoàng tuyệt vọng có những vị cứu tinh xuất hiện như những bông hoa nhân ái nở giữa biển khổ trần gian.

-Ngọc Loan

Nguồn:  sưu tầm
Đọc thêm những cuộc hành trình vượt biên khác
​
Powered by Create your own unique website with customizable templates.
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness