Tưởng Niệm Hương Hồn Thuyền Nhân
Thoáng chốc câu chuyện thương tâm xảy ra trên biển đông năm
nào đã trải qua hai mươi hai năm thật nhanh chóng. Thời gian dù khá lâu nhưng mỗi khi hồi tưởng lại chuyến vượt biển đầy gian lao nguy khó tìm tự do, tôi lại thấy rõ từng chi tiết như tất cả mới xảy ra hôm qua. Cảm giác ớn lạnh, bồi hồi, nước mắt lại tuôn ra, cổ họng như muốn nghẹn lại. Không biết tôi khóc vì thương cho thân phận lưu lạc tha hương của mình hay thương cho những linh hồn thuyền nhân năm xưa đã khuất.
. Câu chuyện xảy ra tháng Năm năm 1981, thời gian các cơ cấu hành chánh cũng như dân sự của bạo quyền cộng sản đang rộn ràng chuẩn bị kỷ niệm ngày lễ Lao Động. Chuyện canh phòng nghiêm ngặt những chuyến chuyển người vượt biên hơi lỏng lẻo, cũng là lúc gia đình tôi vội vã và âm thầm chia tay nhau trong nước mắt. Bước chân tôi như có một sức nặng vô tình trì kéo lại khiến tôi không thể nào dễ dàng bước đi, không ngăn được những giọt nước mắt bùi ngùi. Mẹ cứ ghé sát bên tai tôi căn dặn đủ điều. Không biết chuyến đi này có còn cơ hội cho chúng tôi gặp lại nhau hay một lần chia tay là một lần cách biệt nghìn trùng. Tôi đứng tần ngần, hai hàng nước mắt trào ra làm nhòe nhoẹt tất cả cảnh vật chung quanh. Hai bàn tay tôi níu chặt lấy cánh tay mẹ
y như ngày đầu tiên năm nào mẹ dẫn tôi đến trường học. Hình như mẹ tôi cũng đang khóc. Đôi mắt mẹ như tối lại với ngấn lệ ngưng tròng. Hai cánh tay của mẹ vòng ra như muốn ôm trọn lấy người tôi mãi mãi không muốn rời càng làm cho tôi cảm thấy thương mẹ cần mẹ hơn bất cứ lúc nào. Cho đến giây phút chia ly đầy nước mắt này tôi mới thấm thía câu tục ngữ ca dao mà tôi đã học ngày nào:
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Nếu không vì những biến đổi độc tài khắt khe của nhà cầm quyền cộng sản đưa đẩy miền nam và cả nước Việt vào con đường thụt lùi thoái hóa, đói khổ khốn cùng, tương lai ngu dân cực kỳ đen tối, có lẽ bản thân tôi hoặc nhiều những gia đình khác đã không phải chua xót trải qua những giờ phút chia ly đầy nước mắt như thế này. Chắc chắn sẽ không bao giờ phải liều mình nhắm mắt lao thân vào một chuyến vượt biển rẫy đầy những gian lao thử thách, một sống chín chết như chuyến đi định mệnh mà tôi đã trải qua. Chắc chắn sẽ chẳng có một đấng cha mẹ nào đành lòng nuốt trôi niềm đau đớn, đành đoạn cho những đứa con thân yêu nhất ra đi mà không hề biết ngày trở về.
Trước ngày ra đi, biết bao đêm tôi đã âm thầm khóc hết nước mắt, biết bao ngày tôi ủ rủ chẳng còn thiết tha đến mọi việc xung quanh. Lòng tôi không hề muốn xa rời cha mẹ thân yêu, không hề muốn mất đi những tháng ngày êm đềm thần tiên trong ngôi nhà ấm áp có cha mẹ, chúng bạn thường tung tăng vui vẻ chơi đùa chỉ vì nỗi lo sợ cùng cực những đêm ngày lênh đênh một mình trên con thuyền vượt biên bé nhỏ không một ai đoán chắc được số phận may rủi thế nào. Một chuyến đi đầy thử thách và rủi ro. Có nhiều đêm tôi trằn trọc không thể nào ngủ được, trăn trở với những ý tưởng nguy hiểm đe dọa và xúc cảm khi nghĩ đến không có cha mẹ bên cạnh một chuyến đi hãi hùng. Có lần tôi đã gục mặt. Vào lòng mẹ mà thổn thức:
– Mẹ ơi! Con có thể không đi được không mẹ? Giọng nói của tôi nức nở, nghẹn ngào càng làm cho lòng mẹ tôi
thêm tan nát. Mẹ òa lên khóc lớn khiến cho cô của tôi hoảng hốt đã lên tiéng can thiêp:
- Không được. Con phải ra đi vì đó là con đường tương lai của con đó.
Quay sang phía mẹ tôi, cô mắng khẽ: - Chị phải bình tĩnh để cho cháu yên lòng ra đi.
Tất cả mọi việc như đã an bài. Tôi không còn lòng dạ nào để yên ổn ngồi Suy nghĩ vẩn vơ nữa. Chuyện gì đến sẽ phải đến. Dòng dời cứ thản nhiên đưa tôi đi tới những gì mà tôi sắp sửa phải đối diện. Ngày lên đường tôi nghẹn ngào từ biệt cha mẹ gia đình, âm thầm bước chân theo những người khác. Vào một đêm không trăng không sao, trời tối đen như mực, tôi bước từng bước theo chân người đàn ông hướng dẫn, hồi hộp tận cùng bên cạnh những người thân yêu vượt qua cánh đồng trống. Vì lo sợ bại lộ, người đàn ông hướng dẫn dặn chúng tôi không ai được mang dép để rủi ro có chuyện gì xảy ra mọi người có thể chạy thật nhanh. Nhóm người cùng đi với chúng tôi cũng lặng lẽ rảo bước theo nhau trong đêm tối, vượt qua những hào hố gập ghềnh, những cành cây khô đầy gai góc.
Hai bàn chân tôi giẫm lên không biết bao nhiêu lần những chông gai đau đớn, những mảnh sành cắt đứt từng vết dưới lòng bàn chân rướm máu. Cuối cùng, nhóm người chúng tôi cũng tới được điểm hẹn. Những đau đớn và phập phồng lúc bấy giờ tuy có ghê gớm nhưng chưa thấm thía gì so với những lo sợ vô vàn khi trước mặt tôi là đại durong mênh mông đang ầm ì tiếng sóng. Tôi biết chắc rằng, rồi đây, không bao lâu nữa, số phận của chúng tôi sẽ phải giao phó cho một định mệnh không biết may rủi thế nào. Chúng tôi sẽ may mắn tìm được bến bờ tự do hay sẽ vùi chôn xác thân trong lòng đại dương giá lạnh này. Tất cả cũng vì hai chữ tự do.
Chiếc ghe vượt biển kích cỡ dự liệu chỉ vừa đủ cho khoảng Sáu mươi người. Nhưng cuối cùng phải chở thêm hai mươi người căn me (những người vượt biên không trả tiền). Con số thặng dư tạo ra rất nhiều xáo trộn trong lúc chuyển người lên ghe khiến cho chủ tàu hoang mang lo sợ. Trong khi đó, một chiếc tàu tuần tiễu duyên phòng đi kiểm soát càng khiến cho không những chủ tàu mà tất cả chúng tôi đều lo sợ bị bại lộ. Số phận tù đày cực khổ đã hiện ra trong đầu óc. Chiếc tàu tuần duyên chạy xình xịch chậm chạp và chiếu đèn rọi về phía chúng tôi. Mọi người đều phập phồng lo sợ và sẵn sàng để bị bắt nhưng như có một phép lạ vô cùng mầu nhiệm khiến cho chiếc tàu tuần duyên đã không nhìn thấy chúng tôi, đã chạy qua chiếc ghe vượt biên để lại những vệt sóng trắng xóa nhấp nhô trên con kinh nước chảy bập bềnh.
Chiếc ghe của chúng tôi nhẹ nhàng chuyển mình rời bến đậu, từ từ vượt sóng tiến vào biển khơi. Qua một đêm một ngày, chiếc ghe đã ra tới hải phận. Tôi ngoảnh mặt nhìn lại phía sau chỉ thấy một chân trời mênh mông xa tắp không hề nhìn thấy bến bờ xóm làng.
Đêm thứ hai, đại dương bắt đầu nổi sóng. Từng con sóng nhấp nhô vươn cao lên tới đỉnh đầu rồi thụp sâu xuống lòng biển cả làm cho chiếc ghe mong manh bé nhỏ như cánh lá trôi nổi giữa dòng. Bầu trời đêm đen kịt không một ánh trăng sao. Không gian thỉnh thoảng lóe lên những ánh chớp cắt ngang lưng trời. Tiếp theo là tiếng sấm, tiếng Sét kinh hồn tỏa ra trên lòng biển đêm tăm tối. Cơn bão nhiệt đới kéo tới dập vùi con thuyền bé nhỏ trong đêm đen đầy đe dọa. Từng đợt sóng lớn đánh mạnh xuống làm cho thân ghe vặn vẹo tròng trành như muốn lật úp trên mặt đại dương đang đùng đùng dậy sóng. Mọi người trên ghe thất kinh, thì thầm van vái Phật Trời.
Bỗng cả tàu trở nên kinh hoàng hơn khi phát giác ra chiếc ghe đã bị ngập nước sắp chìm. Tất cả những người đàn ông trên ghe thay phiên nhau tát nước nhưng tình trạng không có dấu hiệu khá hơn. Cuối cùng, chúng tôi phải chọn giải pháp chỉ để lại trên ghe một can xăng với một can nước uống. Tất cả những vật dụng cá nhân đem theo hay những thứ không cần thiết đều được bỏ xuống biển để chiếc ghe nhẹ hơn mới mong vượt qua cơn bão thập tử nhất sanh và mạng người mới hy vọng được bảo đảm.
Sau khi mọi thứ đã bị bỏ lại trong lòng đại dương, chiếc ghe mới lướt qua được từng đợt sóng. Cho đến sáng hôm sau, chúng tôi mới thật sự thoát khỏi nanh vuốt kinh khiếp đầy thịnh nộ của thủy thần. Đến lúc này, biển lặng sóng êm trở lại. Những người trời ghe cảm thấy vừa đói, khát, giá lạnh vô cùng. Cái lạnh đã thấm nhập vào tận tế bào của da thịt nhưng có còn gì đâu để mà giúp cho thân thể được ấm áp ngoài những lời cầu kinh và những điều thiết tha khẩn vái. Phản ứng của mọi người là lục lọi tìm lại chút lương khô nào đó may ra còn sót lại. Nhưng hỡi ơi! Tất cả những gói to gói nhỏ mà chúng tôi mang theo trong mình đều đã quăng hết xuống biển trong đêm qua. Giờ đây chỉ còn biết nhìn nhau ngậm ngùi chia sẻ từng cơn đói khát và giá lạnh. Gia tài còn lại chỉ là một ít gạo và một can nước chỉ đủ nấu cháo, chia ra mỗi người nửa chén để cầm hơi níu kéo sự sống qua thêm được vài ngày.
Đêm thứ ba lại đến trên mặt biển đen vô tình. Tiếng sóng vỗ bì
bạch vào thân ghe như tiếng ma quái đe dọa khiến tôi sợ và phập phồng nghĩ đến những nguy hiểm vô vàn và những câu chuyện linh thiêng của những người đi biển trước đây kể lại. Từng cơn đói khát lạnh lẽo dậy lên hành hạ khiến tôi liên tưởng đến gia đình, cha mẹ với những bữa cơm no lòng, những đêm ngày ấm áp trong vòng tay thương yêu bao bọc của mẹ cha và xóm làng quê hương thân thiết. Không biết trong lúc này mẹ cha tôi, các anh em của tôi có biết rằng tôi đang chịu đựng từng cơn đói khát lạnh lẽo và biết bao nỗi lo sợ vô hình đến lả người.
Trong cơn mê đồng thiếp đó, bên tai tôi bỗng nghe tiếng ai đó khóc than nghe thật não lòng ai oán. Tôi vội lắng tâm nghe ngóng và nhận ra có cả tiếng khóc bi thiết của trẻ thơ. Rồi những tiếng khóc mỗi lúc mỗi xa dần, chỉ còn lại lãng đãng tiếng gõ mõ cầu kinh. Tôi cho rằng, chiếc ghe của chúng tôi đã trôi dạt tới vùng đất liền nào đó, định lên tiếng hỏi người bên cạnh, bỗng có tiếng anh thanh niên:
- Bà con ơi! Chúng ta đã tới Thái Lan rồi. Có ai nghe thấy tiếng tụng kinh không?
Tôi và mọi người cùng xác nhận là có nghe. Bọn con gái chúng tôi bỗng lo lắng liên tưởng tới thảm cảnh sẽ phải gặp. Nếu chiếc ghe trôi ngang qua hải phận Thái Lan, ở lứa tuổi mười bảy, mười tám như tôi chắc chắn sẽ không thoát khỏi bọn chúng. Theo phản ứng tự nhiên, tôi liền lấy nhớt đặc trên ghe trét kín khuôn mặt để bọn hải tặc Thái Lan khó lòng nhận diện may ra thoát được tai nạn.
Anh tài công nắm chiếc la bàn đi biển trong tay nên biết chiếc ghe không đi về hướng Thái Lan. Với kinh nghiệm nhiều năm đi biển, hiểu rõ những hiển linh trên vùng biển cả với những oan hồn uổng tử từng vùi thây trong lòng biển lạnh hiển linh báo mộng, anh tài công ôn tồn khẳng định:
- Bà con nên giữ bình tĩnh, ngồi yên một chỗ, đừng hoang mang di động quá rất dễ bị lật ghe. Chúng ta hiện rất xa đất liền. Ai là người Công giáo hãy đọc kinh. Ai là người Phật giáo hãy cầu siêu cho các oan hồn uổng tử còn đang vất vưởng trên khắp biển khơi.
Nghe đến đây, tôi muốn thét lên vì sợ nhưng kịp trấn tĩnh quay sang ôm cứng lấy người đang ngồi co ro bên cạnh. Chúng tôi chẳng ai bảo ai cùng khóc thương cho những người bất hạnh, những đồng bào ruột thịt đã Vùi thân trong lòng biển lạnh vì hai chữ tự do. Trên ghe phần nhiều là người Công giáo nên cùng nhau đọc kinh khấn nguyện và cầu siêu cho các linh hồn đã chết oan uổng trên biển.
Quá chăm chú cầu nguyện, cầm lòng cầm trí khấn khứa các linh hồn nên tôi không biết những tiếng than khóc ỉ ôi trên mặt biển vắng đã chấm dứt từ lúc nào. Chỉ thấy rằng, sau đó chiếc ghe như có phép mầu nhiệm đã chạy rất nhanh và êm ái như đang lướt đi trên sông vắng. Cuối cùng, vì đói, vì khát, vì lạnh mọi người đều thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn nhưng bình an một cách kỳ lạ. Khi những tia nắng ấm êm dịu chiếu xuống chiếc ghe xơ xác, mọi người bừng tỉnh giấc. Nắng ấm chan hòa khiến cho lòng tôi an tịnh và thân thể khỏe khoắn hơn.
Mọi người nhìn nhau với nụ cười gượng gạo đầy thân tình chia sẻ. Chúng tôi nhìn ngắm từng bầy cá heo như đang chia sẻ niềm vui vô tình. Chúng nhảy lên từng đợt theo hướng chiếc ghe đang chạy tới.
Đến giữa trưa, ánh nắng chan hòa trên mặt biển trong xanh êm ả, bỗng nhiên một chiếc tàu của Anh xuất hiện. Chúng tôi đồng loạt la hét ầm ĩ, dải khăn trắng đã viết sẵn chữ S.O.S được giăng lên. Chiếc tàu Anh đã cặp sát cạnh chiếc ghe mong manh bé nhỏ. Chiếc thang dây được thả xuống, chúng tôi lần lượt được đặt chân lên chiếc tàu sắt to lớn vững chãi mang ký hiệu của nước Anh đã ra tay cứu Vớt chúng tôi trên chiếc ghe vượt biên bé nhỏ như chiếc lá giữa biển rộng mênh mông đầy bất trắc hãi hùng.
Chúng tôi được những người trên chiếc tàu Anh đón nhận đầy tình người. Những bữa ăn nóng hổi thịnh soạn mà tất cả chúng tôi chưa từng được hưởng từ khi cộng sản vào chiếm miền nam yêu dấu. Chúng tôi đứng trên bong con tàu nhân đạo đưa mắt nhìn vào lòng biển rộng, thấp thoáng trong ánh nắng rực rỡ chan hòa trên làn nước bạc là chiếc ghe bé nhỏ đã cưu mang bảo bọc sinh mạng của chúng tôi trong suốt mấy ngày gian lao nguy khó vừa qua. Chúng tôi ngửa mặt thầm tạ ơn Trời Đất | Chúa Phật đã ban cho chúng tôi cơ may thoát hiểm. Nếu không có chiếc tàu Anh cứu vớt, không biết số phận của chúng tôi sẽ đi về đâu trong lòng biển cả vô tình.
Sau bao nhiêu năm dài sống trên vùng đất tự do no ấm, của cải dư đủ thừa mứa, không biết trong chúng ta có ai còn nhớ lời hứa khi còn đang ngụp lặn trong mênh mang mưa bão Với đói khát, gian nguy, ngàn vạn nỗi kinh hoàng.
Giờ đây, chúng ta hãy thắp lên một nén hương trầm tưởng niệm hương hồn các thuyền nhân đã chìm sâu thân xác trong lòng biển lạnh năm xưa. Cầu mong cho các vong linh bất hạnh khốn khổ đó được siêu thoát vinh thăng, sớm được yên nghỉ trên đất nước trời. Những vong linh vì hai chữ tự do đã nói lên sự can trường bất khuất, chẳng khác những vị anh hùng hào kiệt, rất đáng được ghi danh Vào trang Sử của dân tộc Việt Nam vào thời kỳ biến động với cuộc hành trình biển đông đã xảy ra, có một không hai trong lịch sử của thế gian cũng như giống nòi. Các thế hệ sau phải biết được chiến sử hào hùng của những anh hùng vượt chết đi tìm tự do trên biển cả với ước vọng mưu cầu nhân quyền dân chủ và cơm no áo ấm cho toàn dân hiện nay còn đang bị cộng sản Việt Nam chiếm đoạt, phải ngăn chặn những áp bức nghiệt ngã điên cuồng mà người cộng sản với guồng máy độc ác đang cai trị quê hương yêu dấu.
Cầu xin vong linh của những thuyền nhân Việt Nam đã vùi thây rong lòng biển đông hoang lạnh năm nào hãy về đây chứng giám cho ấm lòng của những đồng bào thân yêu đang thiết tha khấn nguyện và ưởng niệm nỗi bất hạnh mà các hương linh đã phải trải qua.
California, 4/2/03.
Trang Yến Vy
Nguồn: sưu tầm
Thoáng chốc câu chuyện thương tâm xảy ra trên biển đông năm
nào đã trải qua hai mươi hai năm thật nhanh chóng. Thời gian dù khá lâu nhưng mỗi khi hồi tưởng lại chuyến vượt biển đầy gian lao nguy khó tìm tự do, tôi lại thấy rõ từng chi tiết như tất cả mới xảy ra hôm qua. Cảm giác ớn lạnh, bồi hồi, nước mắt lại tuôn ra, cổ họng như muốn nghẹn lại. Không biết tôi khóc vì thương cho thân phận lưu lạc tha hương của mình hay thương cho những linh hồn thuyền nhân năm xưa đã khuất.
. Câu chuyện xảy ra tháng Năm năm 1981, thời gian các cơ cấu hành chánh cũng như dân sự của bạo quyền cộng sản đang rộn ràng chuẩn bị kỷ niệm ngày lễ Lao Động. Chuyện canh phòng nghiêm ngặt những chuyến chuyển người vượt biên hơi lỏng lẻo, cũng là lúc gia đình tôi vội vã và âm thầm chia tay nhau trong nước mắt. Bước chân tôi như có một sức nặng vô tình trì kéo lại khiến tôi không thể nào dễ dàng bước đi, không ngăn được những giọt nước mắt bùi ngùi. Mẹ cứ ghé sát bên tai tôi căn dặn đủ điều. Không biết chuyến đi này có còn cơ hội cho chúng tôi gặp lại nhau hay một lần chia tay là một lần cách biệt nghìn trùng. Tôi đứng tần ngần, hai hàng nước mắt trào ra làm nhòe nhoẹt tất cả cảnh vật chung quanh. Hai bàn tay tôi níu chặt lấy cánh tay mẹ
y như ngày đầu tiên năm nào mẹ dẫn tôi đến trường học. Hình như mẹ tôi cũng đang khóc. Đôi mắt mẹ như tối lại với ngấn lệ ngưng tròng. Hai cánh tay của mẹ vòng ra như muốn ôm trọn lấy người tôi mãi mãi không muốn rời càng làm cho tôi cảm thấy thương mẹ cần mẹ hơn bất cứ lúc nào. Cho đến giây phút chia ly đầy nước mắt này tôi mới thấm thía câu tục ngữ ca dao mà tôi đã học ngày nào:
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Nếu không vì những biến đổi độc tài khắt khe của nhà cầm quyền cộng sản đưa đẩy miền nam và cả nước Việt vào con đường thụt lùi thoái hóa, đói khổ khốn cùng, tương lai ngu dân cực kỳ đen tối, có lẽ bản thân tôi hoặc nhiều những gia đình khác đã không phải chua xót trải qua những giờ phút chia ly đầy nước mắt như thế này. Chắc chắn sẽ không bao giờ phải liều mình nhắm mắt lao thân vào một chuyến vượt biển rẫy đầy những gian lao thử thách, một sống chín chết như chuyến đi định mệnh mà tôi đã trải qua. Chắc chắn sẽ chẳng có một đấng cha mẹ nào đành lòng nuốt trôi niềm đau đớn, đành đoạn cho những đứa con thân yêu nhất ra đi mà không hề biết ngày trở về.
Trước ngày ra đi, biết bao đêm tôi đã âm thầm khóc hết nước mắt, biết bao ngày tôi ủ rủ chẳng còn thiết tha đến mọi việc xung quanh. Lòng tôi không hề muốn xa rời cha mẹ thân yêu, không hề muốn mất đi những tháng ngày êm đềm thần tiên trong ngôi nhà ấm áp có cha mẹ, chúng bạn thường tung tăng vui vẻ chơi đùa chỉ vì nỗi lo sợ cùng cực những đêm ngày lênh đênh một mình trên con thuyền vượt biên bé nhỏ không một ai đoán chắc được số phận may rủi thế nào. Một chuyến đi đầy thử thách và rủi ro. Có nhiều đêm tôi trằn trọc không thể nào ngủ được, trăn trở với những ý tưởng nguy hiểm đe dọa và xúc cảm khi nghĩ đến không có cha mẹ bên cạnh một chuyến đi hãi hùng. Có lần tôi đã gục mặt. Vào lòng mẹ mà thổn thức:
– Mẹ ơi! Con có thể không đi được không mẹ? Giọng nói của tôi nức nở, nghẹn ngào càng làm cho lòng mẹ tôi
thêm tan nát. Mẹ òa lên khóc lớn khiến cho cô của tôi hoảng hốt đã lên tiéng can thiêp:
- Không được. Con phải ra đi vì đó là con đường tương lai của con đó.
Quay sang phía mẹ tôi, cô mắng khẽ: - Chị phải bình tĩnh để cho cháu yên lòng ra đi.
Tất cả mọi việc như đã an bài. Tôi không còn lòng dạ nào để yên ổn ngồi Suy nghĩ vẩn vơ nữa. Chuyện gì đến sẽ phải đến. Dòng dời cứ thản nhiên đưa tôi đi tới những gì mà tôi sắp sửa phải đối diện. Ngày lên đường tôi nghẹn ngào từ biệt cha mẹ gia đình, âm thầm bước chân theo những người khác. Vào một đêm không trăng không sao, trời tối đen như mực, tôi bước từng bước theo chân người đàn ông hướng dẫn, hồi hộp tận cùng bên cạnh những người thân yêu vượt qua cánh đồng trống. Vì lo sợ bại lộ, người đàn ông hướng dẫn dặn chúng tôi không ai được mang dép để rủi ro có chuyện gì xảy ra mọi người có thể chạy thật nhanh. Nhóm người cùng đi với chúng tôi cũng lặng lẽ rảo bước theo nhau trong đêm tối, vượt qua những hào hố gập ghềnh, những cành cây khô đầy gai góc.
Hai bàn chân tôi giẫm lên không biết bao nhiêu lần những chông gai đau đớn, những mảnh sành cắt đứt từng vết dưới lòng bàn chân rướm máu. Cuối cùng, nhóm người chúng tôi cũng tới được điểm hẹn. Những đau đớn và phập phồng lúc bấy giờ tuy có ghê gớm nhưng chưa thấm thía gì so với những lo sợ vô vàn khi trước mặt tôi là đại durong mênh mông đang ầm ì tiếng sóng. Tôi biết chắc rằng, rồi đây, không bao lâu nữa, số phận của chúng tôi sẽ phải giao phó cho một định mệnh không biết may rủi thế nào. Chúng tôi sẽ may mắn tìm được bến bờ tự do hay sẽ vùi chôn xác thân trong lòng đại dương giá lạnh này. Tất cả cũng vì hai chữ tự do.
Chiếc ghe vượt biển kích cỡ dự liệu chỉ vừa đủ cho khoảng Sáu mươi người. Nhưng cuối cùng phải chở thêm hai mươi người căn me (những người vượt biên không trả tiền). Con số thặng dư tạo ra rất nhiều xáo trộn trong lúc chuyển người lên ghe khiến cho chủ tàu hoang mang lo sợ. Trong khi đó, một chiếc tàu tuần tiễu duyên phòng đi kiểm soát càng khiến cho không những chủ tàu mà tất cả chúng tôi đều lo sợ bị bại lộ. Số phận tù đày cực khổ đã hiện ra trong đầu óc. Chiếc tàu tuần duyên chạy xình xịch chậm chạp và chiếu đèn rọi về phía chúng tôi. Mọi người đều phập phồng lo sợ và sẵn sàng để bị bắt nhưng như có một phép lạ vô cùng mầu nhiệm khiến cho chiếc tàu tuần duyên đã không nhìn thấy chúng tôi, đã chạy qua chiếc ghe vượt biên để lại những vệt sóng trắng xóa nhấp nhô trên con kinh nước chảy bập bềnh.
Chiếc ghe của chúng tôi nhẹ nhàng chuyển mình rời bến đậu, từ từ vượt sóng tiến vào biển khơi. Qua một đêm một ngày, chiếc ghe đã ra tới hải phận. Tôi ngoảnh mặt nhìn lại phía sau chỉ thấy một chân trời mênh mông xa tắp không hề nhìn thấy bến bờ xóm làng.
Đêm thứ hai, đại dương bắt đầu nổi sóng. Từng con sóng nhấp nhô vươn cao lên tới đỉnh đầu rồi thụp sâu xuống lòng biển cả làm cho chiếc ghe mong manh bé nhỏ như cánh lá trôi nổi giữa dòng. Bầu trời đêm đen kịt không một ánh trăng sao. Không gian thỉnh thoảng lóe lên những ánh chớp cắt ngang lưng trời. Tiếp theo là tiếng sấm, tiếng Sét kinh hồn tỏa ra trên lòng biển đêm tăm tối. Cơn bão nhiệt đới kéo tới dập vùi con thuyền bé nhỏ trong đêm đen đầy đe dọa. Từng đợt sóng lớn đánh mạnh xuống làm cho thân ghe vặn vẹo tròng trành như muốn lật úp trên mặt đại dương đang đùng đùng dậy sóng. Mọi người trên ghe thất kinh, thì thầm van vái Phật Trời.
Bỗng cả tàu trở nên kinh hoàng hơn khi phát giác ra chiếc ghe đã bị ngập nước sắp chìm. Tất cả những người đàn ông trên ghe thay phiên nhau tát nước nhưng tình trạng không có dấu hiệu khá hơn. Cuối cùng, chúng tôi phải chọn giải pháp chỉ để lại trên ghe một can xăng với một can nước uống. Tất cả những vật dụng cá nhân đem theo hay những thứ không cần thiết đều được bỏ xuống biển để chiếc ghe nhẹ hơn mới mong vượt qua cơn bão thập tử nhất sanh và mạng người mới hy vọng được bảo đảm.
Sau khi mọi thứ đã bị bỏ lại trong lòng đại dương, chiếc ghe mới lướt qua được từng đợt sóng. Cho đến sáng hôm sau, chúng tôi mới thật sự thoát khỏi nanh vuốt kinh khiếp đầy thịnh nộ của thủy thần. Đến lúc này, biển lặng sóng êm trở lại. Những người trời ghe cảm thấy vừa đói, khát, giá lạnh vô cùng. Cái lạnh đã thấm nhập vào tận tế bào của da thịt nhưng có còn gì đâu để mà giúp cho thân thể được ấm áp ngoài những lời cầu kinh và những điều thiết tha khẩn vái. Phản ứng của mọi người là lục lọi tìm lại chút lương khô nào đó may ra còn sót lại. Nhưng hỡi ơi! Tất cả những gói to gói nhỏ mà chúng tôi mang theo trong mình đều đã quăng hết xuống biển trong đêm qua. Giờ đây chỉ còn biết nhìn nhau ngậm ngùi chia sẻ từng cơn đói khát và giá lạnh. Gia tài còn lại chỉ là một ít gạo và một can nước chỉ đủ nấu cháo, chia ra mỗi người nửa chén để cầm hơi níu kéo sự sống qua thêm được vài ngày.
Đêm thứ ba lại đến trên mặt biển đen vô tình. Tiếng sóng vỗ bì
bạch vào thân ghe như tiếng ma quái đe dọa khiến tôi sợ và phập phồng nghĩ đến những nguy hiểm vô vàn và những câu chuyện linh thiêng của những người đi biển trước đây kể lại. Từng cơn đói khát lạnh lẽo dậy lên hành hạ khiến tôi liên tưởng đến gia đình, cha mẹ với những bữa cơm no lòng, những đêm ngày ấm áp trong vòng tay thương yêu bao bọc của mẹ cha và xóm làng quê hương thân thiết. Không biết trong lúc này mẹ cha tôi, các anh em của tôi có biết rằng tôi đang chịu đựng từng cơn đói khát lạnh lẽo và biết bao nỗi lo sợ vô hình đến lả người.
Trong cơn mê đồng thiếp đó, bên tai tôi bỗng nghe tiếng ai đó khóc than nghe thật não lòng ai oán. Tôi vội lắng tâm nghe ngóng và nhận ra có cả tiếng khóc bi thiết của trẻ thơ. Rồi những tiếng khóc mỗi lúc mỗi xa dần, chỉ còn lại lãng đãng tiếng gõ mõ cầu kinh. Tôi cho rằng, chiếc ghe của chúng tôi đã trôi dạt tới vùng đất liền nào đó, định lên tiếng hỏi người bên cạnh, bỗng có tiếng anh thanh niên:
- Bà con ơi! Chúng ta đã tới Thái Lan rồi. Có ai nghe thấy tiếng tụng kinh không?
Tôi và mọi người cùng xác nhận là có nghe. Bọn con gái chúng tôi bỗng lo lắng liên tưởng tới thảm cảnh sẽ phải gặp. Nếu chiếc ghe trôi ngang qua hải phận Thái Lan, ở lứa tuổi mười bảy, mười tám như tôi chắc chắn sẽ không thoát khỏi bọn chúng. Theo phản ứng tự nhiên, tôi liền lấy nhớt đặc trên ghe trét kín khuôn mặt để bọn hải tặc Thái Lan khó lòng nhận diện may ra thoát được tai nạn.
Anh tài công nắm chiếc la bàn đi biển trong tay nên biết chiếc ghe không đi về hướng Thái Lan. Với kinh nghiệm nhiều năm đi biển, hiểu rõ những hiển linh trên vùng biển cả với những oan hồn uổng tử từng vùi thây trong lòng biển lạnh hiển linh báo mộng, anh tài công ôn tồn khẳng định:
- Bà con nên giữ bình tĩnh, ngồi yên một chỗ, đừng hoang mang di động quá rất dễ bị lật ghe. Chúng ta hiện rất xa đất liền. Ai là người Công giáo hãy đọc kinh. Ai là người Phật giáo hãy cầu siêu cho các oan hồn uổng tử còn đang vất vưởng trên khắp biển khơi.
Nghe đến đây, tôi muốn thét lên vì sợ nhưng kịp trấn tĩnh quay sang ôm cứng lấy người đang ngồi co ro bên cạnh. Chúng tôi chẳng ai bảo ai cùng khóc thương cho những người bất hạnh, những đồng bào ruột thịt đã Vùi thân trong lòng biển lạnh vì hai chữ tự do. Trên ghe phần nhiều là người Công giáo nên cùng nhau đọc kinh khấn nguyện và cầu siêu cho các linh hồn đã chết oan uổng trên biển.
Quá chăm chú cầu nguyện, cầm lòng cầm trí khấn khứa các linh hồn nên tôi không biết những tiếng than khóc ỉ ôi trên mặt biển vắng đã chấm dứt từ lúc nào. Chỉ thấy rằng, sau đó chiếc ghe như có phép mầu nhiệm đã chạy rất nhanh và êm ái như đang lướt đi trên sông vắng. Cuối cùng, vì đói, vì khát, vì lạnh mọi người đều thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn nhưng bình an một cách kỳ lạ. Khi những tia nắng ấm êm dịu chiếu xuống chiếc ghe xơ xác, mọi người bừng tỉnh giấc. Nắng ấm chan hòa khiến cho lòng tôi an tịnh và thân thể khỏe khoắn hơn.
Mọi người nhìn nhau với nụ cười gượng gạo đầy thân tình chia sẻ. Chúng tôi nhìn ngắm từng bầy cá heo như đang chia sẻ niềm vui vô tình. Chúng nhảy lên từng đợt theo hướng chiếc ghe đang chạy tới.
Đến giữa trưa, ánh nắng chan hòa trên mặt biển trong xanh êm ả, bỗng nhiên một chiếc tàu của Anh xuất hiện. Chúng tôi đồng loạt la hét ầm ĩ, dải khăn trắng đã viết sẵn chữ S.O.S được giăng lên. Chiếc tàu Anh đã cặp sát cạnh chiếc ghe mong manh bé nhỏ. Chiếc thang dây được thả xuống, chúng tôi lần lượt được đặt chân lên chiếc tàu sắt to lớn vững chãi mang ký hiệu của nước Anh đã ra tay cứu Vớt chúng tôi trên chiếc ghe vượt biên bé nhỏ như chiếc lá giữa biển rộng mênh mông đầy bất trắc hãi hùng.
Chúng tôi được những người trên chiếc tàu Anh đón nhận đầy tình người. Những bữa ăn nóng hổi thịnh soạn mà tất cả chúng tôi chưa từng được hưởng từ khi cộng sản vào chiếm miền nam yêu dấu. Chúng tôi đứng trên bong con tàu nhân đạo đưa mắt nhìn vào lòng biển rộng, thấp thoáng trong ánh nắng rực rỡ chan hòa trên làn nước bạc là chiếc ghe bé nhỏ đã cưu mang bảo bọc sinh mạng của chúng tôi trong suốt mấy ngày gian lao nguy khó vừa qua. Chúng tôi ngửa mặt thầm tạ ơn Trời Đất | Chúa Phật đã ban cho chúng tôi cơ may thoát hiểm. Nếu không có chiếc tàu Anh cứu vớt, không biết số phận của chúng tôi sẽ đi về đâu trong lòng biển cả vô tình.
Sau bao nhiêu năm dài sống trên vùng đất tự do no ấm, của cải dư đủ thừa mứa, không biết trong chúng ta có ai còn nhớ lời hứa khi còn đang ngụp lặn trong mênh mang mưa bão Với đói khát, gian nguy, ngàn vạn nỗi kinh hoàng.
Giờ đây, chúng ta hãy thắp lên một nén hương trầm tưởng niệm hương hồn các thuyền nhân đã chìm sâu thân xác trong lòng biển lạnh năm xưa. Cầu mong cho các vong linh bất hạnh khốn khổ đó được siêu thoát vinh thăng, sớm được yên nghỉ trên đất nước trời. Những vong linh vì hai chữ tự do đã nói lên sự can trường bất khuất, chẳng khác những vị anh hùng hào kiệt, rất đáng được ghi danh Vào trang Sử của dân tộc Việt Nam vào thời kỳ biến động với cuộc hành trình biển đông đã xảy ra, có một không hai trong lịch sử của thế gian cũng như giống nòi. Các thế hệ sau phải biết được chiến sử hào hùng của những anh hùng vượt chết đi tìm tự do trên biển cả với ước vọng mưu cầu nhân quyền dân chủ và cơm no áo ấm cho toàn dân hiện nay còn đang bị cộng sản Việt Nam chiếm đoạt, phải ngăn chặn những áp bức nghiệt ngã điên cuồng mà người cộng sản với guồng máy độc ác đang cai trị quê hương yêu dấu.
Cầu xin vong linh của những thuyền nhân Việt Nam đã vùi thây rong lòng biển đông hoang lạnh năm nào hãy về đây chứng giám cho ấm lòng của những đồng bào thân yêu đang thiết tha khấn nguyện và ưởng niệm nỗi bất hạnh mà các hương linh đã phải trải qua.
California, 4/2/03.
Trang Yến Vy
Nguồn: sưu tầm