TƯỜNG TRÌNH - KHÚC HÁT DU CA
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness

Vượt Biên


Lời Hay:

Vượt Biên

Năm 1982 mọi người xôn xao đi tìm tự do bởi vì không thể chịu được sự đàn áp của cộng sản. Gia đình tôi cũng nằm trong hoàn cảnh này. Cha tôi đã chạy ngược, chạy xuôi tìm chỗ cho vợ chồng tôi đi.
Một hôm cha tôi gọi vợ chồng tôi tới và bảo: “Thầy thấy tình cảnh này không ổn. Thầy muốn gia đình mình có người sống ở một nước tự do nào đó để có thể giúp ích cho gia đình và các em con sau này. Thầy tin tưởng ở con vì chỉ có con mới có thể đương đầu với những gì có thể xảy ra. (Tôi là lớn có năm em nhỏ.) Thầy đã có chỗ cho vợ chồng con đi đường bộ với giá là ba cây vàng cho một người. Ngày 23 tháng Chín chúng con phải có mặt tại điểm hẹn sẽ có người dẫn đường chúng con đi.”
Tôi rất lo lắng vì phải xa cha mẹ và các em. Hơn nữa tôi mới lấy chồng được một tháng và mới mười tám tuổi, nhưng tôi đã nghe lời cha tôi. Đúng hai hôm sau là ngày 23 tháng Chín năm 1982. Mẹ tôi khăn gói cho vợ chồng tôi ra đi. Bà bó cho tôi năm bộ quần áo, hai chỉ vàng khâu Vào gấu áo và một ít đồ ăn đi dọc đường. Sáng sớm, cô tôi dẫn vợ chồng tôi đi Biên Hòa (nhà tôi ở Hố Nai), sau đó đi Saigon, rồi đi Cần Thơ để không ai nghi ngờ. Chúng tôi đến Cần Thơ, rồi đi Châu Đốc, lúc đó là sáu giờ chiều. Cô tôi giao chúng tôi cho một người đàn ông, rồi quay về. Nhóm chúng tôi có năm người.
Đúng bảy giờ tối, chúng tôi qua phà Bắc Mỹ Thuận. Sau đó, đi theo con đường mòn, đi miết, tới mười một giờ đêm tới cánh đồng nhỏ. Ở đó đã có người chờ sẵn, ông ta cho chúng tôi mỗi người nửa ổ bánh mì, rồi đưa chúng tôi qua Campuchia.
Khi đến Campuchia, chúng tôi giả dạng là người Campuchia. Tôi quấn Xà rông, đầu đội khăn, học tiếng Campuchia bằng cách tập nói chuyện với người bản xứ. Ở đó ít lâu chờ có đợt, rồi đi tiếp. Ông ta dẫn chúng tôi đi đường bờ ruộng, lội bùn tới đầu gối, con đường bùn rất xa. Tôi mệt quá, đi được nửa đường bùn không đi được nữa. Chồng tôi làm một dây kéo tôi đi. Lúc đó, chúng tôi phải bỏ giỏ trên vai vì mệt quá không thể đeo nó được nữa.
Đi tới một cánh rừng, có một người Miên chờ sẵn đưa chúng tôi đi tiếp. Ông ta cho chúng tôi một nắm xôi và ít mắm bồ hóc. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mắm bồ hóc, mùi khó ngửi làm sao, nhưng vì đói quá cũng phải ăn để mà sống. Sau đó, ông ta dẫn chúng tôi băng qua rừng già. Chúng tôi đi suốt đêm, thân xác rã rời, quần áo rách nát. Có lúc tôi giẫm lên cả xương người. Tôi để ý dọc đường đi, ôi thôi toàn là xương người, xương người lớn, xương trẻ con rất nhiều. Tiếng thú rừng hú ban đêm nghe rất sợ hãi. Những con muỗi mòng chích, những con bọ rừng bò lên người cắn, cứ thế tha hồ mà gãi. Đến gần sáng, chúng tôi nghỉ trong bụi rậm, mỗi người một bụi. Cho tới tối, chui ra lại đi tiếp. Chân tay, mặt mũi bị cào xây xát vì cỏ dại và gai, nhiều lúc vết trầy nhức nhối, máu rỉ ra, thuốc thang chăng có. Vào buổi tối trước khi đi chỉ có nắm xôi và mắm bồ hóc, ban ngày phải nhịn đói chờ tới tối.
Chúng tôi đến trại, họ lục xét từng người vì biết những người đi vượt biên có tiền và vàng. Khi họ khám đến tôi đã lấy đi hai chỉ vàng. Họ tưởng tôi còn giấu đâu đó nên vặn hỏi, tôi nói không còn nữa. Họ không tin đã bắt tôi uống thuốc để đi tiêu ra xem có vàng không. Suốt gần hai năm ở đó, chúng tôi phải chạy giặc luôn. Cứ đến mùa khô là chúng đánh. (Giặc là bộ đội Việt Nam muốn lấn chiếm phần đất Campuchia.) Mỗi lần chạy như thế rất dễ chết vì chúng bắn loạn xạ.
Thời gian sống ở Campuchia tôi luôn hóa trang thành đàn ông. Mặt quẹt lọ nghẹ đen đúa, quần áo dơ dáy, tóc cắt ngắn. O trong trại, đàn ông gánh nước hay chặt cây, đàn bà nấu cơm và làm những việc khác. Đến bữa ăn, mỗi người cầm một khay xếp hàng, họ múc cho mỗi người một phần như tù. Phần ăn trong trại phát mỗi ngày nhưng không đủ, tôi thường xuyên trốn ra ngoài làm chui như gánh nước, chẻ củi...
Mỗi công việc như thế làm từ Sáng đến tối chỉ được trả cho nửa chén gạo. Quần áo chỉ có một bộ trên người mặc sáu tháng trời. Mỗi khi tắm phải đứng chỗ nắng thật lâu chờ quần áo khô. Lương thực bữa đói, bữa no. Tôi đói quá, trong lúc đi làm bên ngoài thấy mấy vỏ dưa hấu dơ bẩn ngoài đường liền lượm về nấu canh ăn. Sau bữa đó, tôi lên cơn sốt nặng. Không có thuốc để chữa, tôi tưởng không qua khỏi. May quá, có người chỉ cho tôi một thứ lá trong rừng có thể chữa khỏi bệnh. Tức thì chồng tôi đi tìm lá cho tôi uống, tôi đã khỏi bệnh. Tại trại, tối nào tụi Miên cũng vào từng lều khám, thấy đàn bà con gái là chúng hãm hiếp. Cho nên, lúc nào tôi cũng hóa trang là đàn ông kể cả ngày lẫn đêm để tránh tụi nó. Nhiều lúc tôi muốn chết đi được. Khoảng mấy tháng sau, tôi có thai đứa con đầu lòng. Thiếu đồ ăn, thịt thà không có, tôi thường xuyên trốn ra khỏi trại đến những nơi có đám cưới hoặc tiệc tùng xin rửa chén và dọn dẹp. Họ cho một miếng thịt lớn bằng bốn đốt ngón tay. Tôi mang về trại kho mặn để ăn. Ngày qua ngày, thân tôi chỉ là cái xác không hồn.
Một hôm, vào khoảng nửa đêm có tiéng báo động có giặc đến. Chúng tôi phải khăn gói chạy. Chồng tôi gánh những vật dụng cần thiết. Còn tôi bầu sáu tháng xách hai giỏ đồ cần thiết cho tôi và em bé. Tụi Miên bắn súng đằng sau, chúng tôi chạy bán sống bán chết.
Tôi mệt quá bỏ cả giỏ mà chạy, chồng tôi cũng thế. Được khá xa,
tôi không chạy được nữa. Chồng tôi lấy dây lá trong rừng bện lại, kéo
tôi đi. Cứ như thế, ban đêm chạy, ban ngày nghỉ trong rừng. Hái lá ăn,
hái trái cây trong rừng ăn, uống nước suối. Cho đến khi chúng tôi đến Thái Lan và dừng chân ở đó.
Thời gian sống ở Thái Lan cũng không khác gì ở Campuchia. Người Thái đối xử cũng tạm được. Tôi mang bầu đi làm tôi mọi cho người ta từ sáng đến tối cũng được ăn hai bữa cơm thừa và thêm chút xíu gạo mang về.
Sống ở Thái Lan được hai tháng, tôi sanh cháu. Bà mụ người Thái đỡ đẻ cho tôi tại trại đã cho tôi đồ ăn để lấy lại sức. Khi con tôi vừa tròn một tuổi, chúng tôi phải qua một trại khác. Chồng tôi xách đồ đạc của con. Nhiều lúc tôi tưởng chết dọc đường vì hết hy vọng đến Mỹ nhưng nghĩ đến chồng con tôi phải quên đi những ý tưởng đó. Lương thực thiếu thốn không có chất dinh dưỡng cho con, chồng tôi kiếm được mấy trái dừa chặt ra lấy nước cho con uống, hái trái rừng ăn tạm qua ngày. Chúng tôi đến trại mới chờ nhận định cư, được năm tháng tôi mang bầu cháu thứ hai. Tôi vẫn trốn trại đi làm chui bên ngoài vì đói quá làm liều. Ai mướn gì làm nấy. Có lần con tôi nhìn thấy đứa bé người Thái ăn cây cà rem, cháu ao ước có cây cà rem ăn. Đối với người ta cây cà rem không đáng gì, nhưng đối với gia đình tôi nó rất lớn. Những gì tôi kiếm được trong ngày chỉ là củ khoai, củ sắn hoặc chén cơm thừa. Tiền bạc chúng tôi không có đến một đồng. Từ khi rời mái ấm gia đình tại Việt Nam, hai chỉ vàng mẹ tôi cho đã bị tụi Miên lấy từ lâu. Tôi thấy con thèm cây cà rem mà lòng đau xót, không biết nói sao cho con hiểu. Tôi chỉ biết ôm con vào lòng mà khóc.
Mấy tháng sau, chúng tôi nhận được giấy gọi phỏng vấn. Chúng tôi vừa mừng, vừa run, chỉ sợ rớt. Khi chúng tôi bồng con lên gặp phái đoàn, họ có cảm tình với gia đình tôi. Họ nói nếu chúng tôi có thân nhân ở Mỹ sẽ chấp nhận cho gia đình tôi đi. May quá, anh chồng tôi sống ở Mỹ đã lâu nên họ đã chấp thuận. Tôi cảm thấy cuộc đời tôi chết đi sống lại. Sau đó, gia đình tôi được chuyển qua Philippine học tiếng Anh trước khi vào Mỹ. Chúng tôi sống tại Philippine sáu tháng, rồi đi Mỹ.
Chúng tôi đến Mỹ vào ngày 20 tháng Mười Một năm 1986, đã định cư và lập nghiệp tại thành phố Oakland, bắc California từ đó cho đến nay. 
Khi gia đình tôi nhận được tin chúng tôi đã tới Mỹ, cha mẹ tôi rất vui mừng và khóc hết nước mắt vì tưởng chúng tôi đã chết từ lâu. Tôi luôn cám ơn bề trên đã cứu sống gia đình tôi trong thời gian vượt biên. Cuộc sống của chúng tôi bây giờ đã ổn định. Vợ chồng tôi đi làm. Hai con chúng tôi đang học đại học.

-Trần Thị Huyền
Nguồn:  sưu tầm
Đọc thêm những cuộc hành trình vượt biên khác
​
Powered by Create your own unique website with customizable templates.
  • Trang Chính
  • Trình Ca
  • Trình Viết
  • HT Vượt Biên
  • Sưu Tầm
  • Your Highness